Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

quạt công nghiệp bán ở tại thái bình , mua quat cong nghiep thai binh báo giá rẻ

 Tài nguyên đất
Đất đai Thái Bình được hình thành về cơ bản là do sự bồi đắp phù sa của hệ thống sông lớn: Sông Hồng, sông Trà Lý (1 chỉ lưu của sông Hồng), sông Luộc (cũng là một chi nhánh của sông Hồng), sông Thái Bình            Sự bồi tụ được tiến hành từ từ trong thời gian dài, tạo ra một châu thổ khá bằng phẳng, độ cao trên dưới 2m so với mực nước biển. Đất là tổng hợp các yếu tố tự nhiên: Địa chất, địa hình, khí hậu, thủy văn, các loài sinh vật (thực vật) và có sự tác động tích cực của con người. Đất Thái Bình được thành tạo từ các trầm tích phù sa cổ, phù sa mới và xác các loài thực vật trôi dạt từ thượng nguồn về, cây cối mọc lên hình thành sự trao đổi chất hai chiều giữa cây và đất. Đất cung cấp cho cây nguồn dinh dưỡng khoáng, cây sau một thời gian sinh trưởng, chu kỳ sống thì trả lại cho đất xác của chúng, làm cho đất ngày càng màu mỡ.
Khí hậu nhiệt đới ẩm, làm cho quá trình phong hóa trong lưu vực diễn ra mạnh. Mưa tập trung theo mùa mang theo khối lượng phù sa lớn từ thượng nguồn về bồi tụ cho đồng bằng Thái Bình. Sự nóng, ẩm, mưa nhiều, mực nước ngầm cao làm cho quá trình phân hủy chất hữu cơ mạnh, tạo thêm độ phì cho đất.
Bàn tay và sức lao động sáng tạo của con người đã cải tạo đất bằng nhiều biện pháp khác nhau: (Thủy lợi, chọn đối tượng trồng trọt phù hợp với từng loại đất) thâm canh.. làm cho tính chất hóa lý của đất được cải thiện, dẫn đến mùa màng bội thu.
Trong qua trình bồi tụ, tuy nói là địa hình Thái Bình bằng phẳng, song thực vật phù sa bồi tụ tạo nên địa hình chỗ cao, chỗ thấp khác nhau, sự chênh lệch độ cao của các vùng không lớn. Các vùng có độ cao từ 0,3m hoặc thấp hơn đã hình thành các vùng ngập nước quanh năm, những vùng này đất bị yếm khí. Các khoáng chất có trong đất: Fe, Mg bị khử ôxy, tan và chảy theo dòng nước rồi tụ lại thành tầng gley trong đất. Diện tích này chiếm tỷ lệ không nhiều.
Vùng đất ven biển chịu tác động của thủy triều, nước mặn thường thâm nhập vào đất liền thông qua các cửa sông, cửa cống tiêu nước, làm cho đất bị nhiễm mặn. Vùng này bao gồm các xã ven biển của hai huyện Thái Thụy và Tiền Hải. Nếu đào sâu xuống khoảng 1-3m, thường gặp nước hơi mặn (nước lợ).
* Các loại đất
Quy luật bồi đắp và tác động của con người làm cho đất Thái Bình phân hóa ra các loại sau:
- Đất phù sa trung tính không được bồi đắp hàng năm: Phân bố ở các huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Đông Hưng, Vũ Thư. Phần lớn ở độ cao 1-2m, thoát ảnh hưởng của thủy triều do hệ thống thủy lợi tốt và nước ngọt từ các sông đưa về, ngăn chặn mặt ngầm. Đất có thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến nặng, có màu nâu đỏ, phản ứng pH 4,5-5. Đây là loại đất có dinh dưỡng khá. Chế độ nước ngầm tầng nông tương đối ổn định, ít bị nhiễm mặn.
- Đất nhiễm mặn ít: Kéo dài thành dải ven biển của các huyện Thái Thụy, Tiền Hải. Độ mặn chính ở đây do ảnh hưởng của nước biển ngầm và kênh rạch ven biển. Mức độ nhiễm mặn thay đổi theo mùa lũ - cạn, ở các độ sâu khác nhau. Nhưng phần lớn nước ngầm tầng nông bị nhiễm mặn. Một phần mặn do hơi nước từ biển đưa vào cũng làm mặn ngay từ bề mặt. Đất mặn có hàm lượng hữu cơ cao, dinh dưỡng khá. Tuy nhiên, độ mặn là yếu tố khống chế sản xuất. Đất thường chưa ổn định, phân tầng chưa rõ rệt, thường có tầng hữu cơ là xác thực vật.
- Đất nhiễm mặn nhiều: Là các loại đất có độ muối trên 0.5%, màu xám thường bị gley mạnh. Mực nước ngầm cao và thường nhiễm mặn ngay từ bề mặt. Chúng phân bố ở ven biển và các cửa sông, các đầm nuôi thủy sản, bãi triều. Thông thường nền nước ngọt ở đây dưới 50m.
- Đất cát: Các cồn cát trong đất liền có tuổi Q³IV và cồn ngoài bãi triều mới hình thành. Cồn cát cao và thô, nước mặn ảnh hưởng rất ít đến tầng mặt. Đất ở đây thường nghèo dinh dưỡng, hơi chua. Tùy thuộc vào độ cao mà đất cát biển cũng phân hóa ra loại đất cát đã được ngọt hóa và loại nhiễm mặn. Các cồn cát cao trong nội địa đã được ngọt hóa và đất không bị nhiễm mặn, là đất thổ cư và trồng hoa màu vào mùa khô. Đất thường không chứa lớp xác thực vật bên dưới.
Đi sâu vào tìm hiểu về các loại đất của Thái Bình có các loại:
- Đất ven biển
- Đất mặn và chua mặn
- Đất ngoài đê
- Đất nội đồng không nhiễm mặn
Đất ven biển
Đất ven biển chia thành 2 loại:
Đất ven biển và cửa sông: Diện tích khoảng 120ha, nằm dọc theo bờ biển từ cửa sông Hồng đến cửa sông Thái Bình. Đây là diện tích phù sa mới được bồi đắp. Mặt đất phẳng, dốc thoải ra phía biển, trơ trọi, độ cao 25-30cm. Các bãi này thường là cát nhiễm mặn, hạt mịn. Hiện nay, các bãi này đã được trồng trọt một số cây ngập mặn để tạo điều kiện cho phù sa lắng đọng và chắn sóng biển, bảo vệ đê điều.
Cồn cát ven biển: Các cồn cát này được hình thành do được bồi tụ sớm hơn vùng bãi. Tác động của sóng, gió đưa cát từ phía biển vào bờ, tích tụ lại, dần dần dồn lại thành cồn cao. Các cồn cát này có khoảng 100ha, tập trung ở các xã Thụy Lương, Thụy Hải, Thái Đô (Thái Thụy), Đông Hoàng, Đông Long (Tiền Hải)
Đất mặn và chua mặn
Loại đất này gồm nhiều loại, căn cứ vào độ chua, độ mặn, có thể chia ra thành các loại:
Đất mặn: Là đất nằm ngoài đê biển và vùng phục cận trong đê. Đất này được bồi đắp do phù sa mịn tạo thành các vùng đất thịt nhẹ (bao gồm các vùng muối, bãi lầy trồng sú vẹt). Diện tích khoảng 200ha.
Đất nhiễm mặn: Khoảng 1.373,5ha, chiếm 1,25 diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh. Loại đất này chủ yếu ở các cửa sông và bãi bồi gần cửa sông. Huyện Thái Thụy, có 854,6ha. Tiền Hải có 518,8ha. Các diện tích đất nhiễm mặn thường nằm ngoài đê, do ảnh hưởng của thủy triều theo các cửa sông tràn vào gây nên. Diện tích này thường chỉ canh tác một vụ. Mùa khô hanh nước sông thấp, nước biển ngấm sâu, khi nước bốc hơi, một lượng muối nổi lên mặt đất. Mùa mưa, các con sông dâng cao, dòng chảy mạnh, phần nào lấn át thủy triều; Đồng thời nước sông dâng cao lên đã rửa mặn cho đất, vì thế có thể trồng cấy được vào vụ mùa. Loại đất này là phù sa mới được bồi tụ có độ pH từ trung tính đến kiềm yếu. Thành phần cơ giới của đất là hạt, có kích thước từ 0,02-0,2mm.
Đất mặn do ảnh hưởng của mạch nước ngầm: Chiếm 2.977,5ha, bằng 2,7% tổng số đất tự nhiên của tỉnh. Loại đất này thường ở nơi thấp (độ cao từ 0,25-0,50m). Nguyên nhân gây mặn là do mạch nước ngầm ở độ sâu 0,8-1m(tầng cát) gây nên, loại đất này có nhiều ở huyện Tiền Hải. Nồng độ Ca trong đất vào khoảng 0,1-0,2%, tổng số muối tan khoảng 3%. Lượng muối này thay đổi theo mùa. Mùa khô hanh, lượng muối trong đất tăng, mùa mưa lượng muối trong đất giảm.
Đất ít mặn:
Diện tích khá lớn, khoảng 13.290,0ha (chiếm12,36% diện tích toàn tỉnh). Đất này có ở các huyện Tiền Hải, Thái Thụy, Đông Hưng, Kiến Xương, Quỳnh Phụ. Đó là loại đất trước kia cũng bị nhiễm mặn nhưng do quá trình canh tác, cải tạo lâu ngày, độ mặn giảm. Hơn nữa, biển lùi xa dần nên sức thẩm thấu của nước biển yếu đi, các mạch nước ngầm từ phía đất liền đẩy nước mặn do quá trình bồi đắp còn tồn đọng ra phía biển làm cho độ mặn giảm đáng kể.
Một nguyên nhân nữa khiến cho độ mặn ở vùng này giảm là do nước mặn (nước mưa, nước thải trong canh tác nông nghiệp) theo các hệ thống thủy lợi tiêu chảy ra biển.
Đất mặn chua
Chiếm diện tích nhỏ, khoảng 918.8ha, nằm rải rác ở các địa phương ven biển thuộc Thái Thụy, Tiền Hải... Loại đất này có độ mặn và độ chua cao là do nguyên nhân chúng nằm sát chân đê biển thường xuyên ngập nước, chịu sự thẩm thấu của nước biển, đồng thời do quá trình rửa trôi ở các vùng khác đem về, đọng lại ở đây.
Đất chua mặn
Chiếm diện tích tương đối lớn 16.942ha chiếm 15.65% diện tích toàn tỉnh. Chia làm hai loại: Loại thường xuyên có nước (12.554ha) nằm ở bắc Thái Thụy, Đông Hưng, Quỳnh Phụ, Tiền Hải và loại khô hạn (4.388ha) ở Thái Thụy, Quỳnh Phụ nằm rải rác và xen kẽ với vùng thường xuyên có nước. Hiện tượng gley, chua mặn ở vùng đất này rất phức tạp. Tầng đất sâu dưới 1m chứa xác các loài thực vật chua mặn phân hủy (sú vẹt). Phía bắc Thái Thụy và phía đông nam Quỳnh Phụ do phù sa sông Hóa và sông Thái Bình bồi đắp, lượng phù sa ít, ảnh hưởng của thủy triều vào sâu hơn làm đất chua mặn. Loại đất này hình thành một dải theo hướng tây bắc - đông nam làm thành ranh giới giữa đất mặn và không mặn. Quá trình canh tác làm độ mặn giảm đi nhưng độ chua lại tăng lên.
Đất ngoài đê
Đây là loại đất phù sa được bồi đắp hàng năm, nằm rải rác ven sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý và sông Hóa. Loại đất này có diện tích rộng lớn, phân bố không liên tục, tùy thuộc vào hướng dòng chảy của sông. Đất có độ kiềm yếu, có khoảng 3.133ha và 422ha đất phù sa được bồi do lũ dâng cao của các con sông.
Ngoài đất ven các con sông lớn, Thái Bình còn có đất cát sa bồi Ngoài sông, hình thành nên các bãi trên sông, thường bị ngập trong mùa lũ và nổi lên trong mùa cạn. Diện tích loại đất bãi này có thể thay đổi hàng năm, có nơi bị dòng chảy của sông xói vào gây lở đất.
Đất có thành phần cơ giới nhẹ (cát và cát pha), có dộ pH trung bình.
Đất nội đồng không nhiễm mặn
Đất nội đồng không nhiễm mặn chiếm diện tích rộng, phân bố ở phần phía tây tỉnh Thái Bình, chủ yếu là các huyện Hưng Hà,Vũ Thư, phần lớn huyện Đông Hưng, Kiến Xương, một phần Quỳnh Phụ. Đây là đất phù sa không được bồi đắp hàng năm, bị biến đổi do quá trình canh tác. Tùy theo sự cao thấp và quá trình khai thác mà mức độ biến đổi của đất khác nhau. Nhìn chung đất được sử dụng chủ yếu để trồng lúa, nên thường xuyên có mức độ gley từ yếu đến mạnh.
Đất phù sa không được bồi, không gley hoặc gley yếu, chua chiếm 1 diện tích khá rộng, 5,197ha, bằng 4,3% tổng số đất canh tác của Thái Bình; Nằm xen kẽ với các loại đất khác không thành vùng tập trung. Loại đất này còn có Hưng Hà, Vũ Thư và Quỳnh Phụ.
Loại đất trên thường có ở vùng thấp hoặc ở vùng cao bị rửa trôi. Tầng phù sa mỏng thường là 40-60cm. Phía dưới là cát, xen lẫn xác sú vẹt. Sự phân giải xác thực vật tạo thành acid hữu cơ làm cho đất chua. Độ chua càng xuống sâu càng giảm. Nguyên nhân nữa làm cho đất chua là quá trình canh tác không hợp lý, đất bị xói mòn, rửa trôi. Phía đông Bắc tỉnh: Quỳnh Phụ, Thái Thụy ảnh hưởng của phù sa sông Thái Bình; Vùng này có phản ứng chua; Song nhìn chung đất có độ phì cao, giàu mùn, đạm, lượng kali khá tốt, đất tốt.
Đất phù sa không bồi, gley trung bình hoặc mạnh chiếm diện tích 41.704ha, bằng 38.4% đất tự nhiên của Thái Bình. Loại đất này có ở Quỳnh Phụ, Hưng Hà,Vũ Thư, Đông Hưng và rải rác ở 1 số nơi khác.
Tính chất, mức độ gley và độ nông sâu của gley cũng phức tạp. Có khi gley trên mặt, ở độ sâu 40-100cm gley diễn ra mạnh hơn. Các lớp đất trên chủ yếu do phù sa được bồi bởi những trận vỡ đê gần đây. Qua trận vỡ đê năm 1945, phù sa được bồi dày 30-40cm ở phía tây nam Hưng Hà và một số xã thuộc huyện Vũ Thư. Mức gley của đất Thái Bình không trầm trọng bởi vì phần lớn phù sa bồi của tỉnh là do hệ thống sông Hồng, do địa hình hơi dốc về phía biển và có hệ thống sông ngòi chằng chịt, thuận lợi cho việc thoát nước, cộng với kinh nghiệm canh tác của người dân (vụ khô hanh, đất được phơi ải, mùa mưa, đất được cày và ngâm nước.
Tài nguyên đất và hiện trạng sử dụng
Sản phẩm chính của Thái Bình là lúa gạo, hoa màu, thủy hải sản... Vì vậy đất là tài nguyên quý giá của tỉnh và là nguồn sinh sống của người nông dân. Là một tỉnh đã tận dụng mọi diện tích đất bình quân đầu người thấp (đất chật, người đông), vì thế nông dân Thái Bình đã tận dụng mọi diện tích đất đai hiện có thể phục vụ việc canh tác tạo ra sản phẩm nhằm duy trì và nâng cao đời sống.
Theo số liệu của Cục Thống kê năm 2000, diện tích đất tự nhiên Thái Bình là 154,224%ha, đất nông nghiệp là 96,567ha chiếm 62,6% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Dân số 1.801.000 người bình quân gần 12 người sống trên 1ha canh tác.
Diện tích đất tự nhiên của Thái Bình có tăng, song diện tích canh tác có xu hướng giảm,. Thay vào đó là việc tăng hệ số sử dụng đất nông nghiệp, toàn bộ đất nông nghiệp được canh tác 2-3 vụ/năm, không còn diện tích chỉ cấy 1 vụ như thời Pháp thuộc (1890).
Phân theo thành phần quản lý và sử dụng:
- Các hộ gia đình, cá nhân: 67,47% diện tích đất tự nhiên, trong đó có 88,22% quỹ đất nông nghiệp của tỉnh.
- Các tổ chức kinh tế: 0.58%
- UBND xã: 31,17% tổng diện tích toàn tỉnh.
Đất nông nghiệp của tỉnh tuy chỉ có 96,567ha, bình quân trên đầu người thấp, nhưng do có nhiều kinh nghiệm sản xuất và áp dụng khoa học - kỹ thuật tiên tiến trong nông nghiệp nên sản lượng lương thực ngày một tăng: Năm 1976 đạt 6 tấn/ha, năm 1985 đạt 7 tấn/ha, năm 1989 đạt 8 tấn/ha
Diện tích trồng màu có 6.398ha, nhưng trồng xen canh, tăng vụ ngày càng nhiều, tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
Phần diện tích bố trí trồng các cây công nghiệp ngắn ngày (đay, mía, cói, dâu tằm, thuốc lào, thuốc lá, cây tinh dầu và dược liệu... cũng có xu hướng tăng.
Bên cạnh cây lúa, hoa màu, cây công nghiệp còn có những cây ăn quả như cam, quýt vải chanh nhãn, táo... được trồng nhỏ lẻ trong vườn hộ gia đình.
Đất lâm nghiệp toàn tỉnh chỉ có 2.560ha ở ven biển Thái Thụy, Tiền Hải. Rừng trên diện tích này không nhiều, một vài nơi có sú vẹt dưới bãi triều hoặc phi lao trên bờ cao. Việc bảo vệ và phát triển rừng trên diện tích này là nhiệm vụ quan trọng góp phần cố định phù sa, mở rộng diện tích tự nhiên của tỉnh.
Tổng diện tích mặt nước ao hồ gần 6.748ha. Ao hồ nằm rải rác, xen kẽ với các khu dân cư, mỗi ao có diện tích không lớn (khoảng 200-300m2). Những năm gần đây, người nông dân đã chú ý cải tạo ao hồ theo hướng trang trại để nuôi tôm cá, bước đầu đã có tín hiệu khả quan.
Theo điều tra gần đây, việc sử dụng đất canh tác của Thái Bình được phân bổ như sau:
- Thành phố Thái Bình: 2.424ha
- Huyện Quỳnh Phụ: 13.584ha
- Huyện Hưng Hà: 13.223ha
- Huyện Đông Hưng: 13.831ha
- Huyện Vũ Thư: 12.083ha
- Huyện Kiến Xương: 13.870ha
- Huyện Tiền Hải: 12.746ha
- Huyện Thái Thụy: 15.015ha
Tự nhiên
Tỉnh Thái Bình nằm ở phía đông nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, từ 20º17´ vĩ Bắc đến 20º49´ vĩ Bắc, từ 106º06´ kinh Đông đến 106°39´ kinh Đông, diện tích tự nhiên 1546 km² (năm 2003)

Thái Bình là một miền quê sông nước, được bao bọc bởi ba dòng sông lớn: Phía tây và tây nam là sông Hồng, giáp hai tỉnh Hà Nam và Nam Định; Phía Bắc là sông Luộc, giáp hai tỉnh Hưng Yên và Hải Hương; Phía đông là sông Hóa, giáp Thành phố Hải Phòng; Phía đông là biển cả mênh mông với trên 50 km bờ biển trong vịnh Bắc Bộ. Cùng với ba con sông lớn bao quanh, được thông nguồn với gần 70 km con sông lớn nhỏ, mảnh đất Thái Bình như một hòn đảo nổi và lại một chiếc võng được đan bằng các dòng sông.
Với vị trí đó, Thái Bình là một vùng đất phì nhiêu được phù sa hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp .

Thủy văn
Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển
Sông ngòi
Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.700-2.200mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chỉ lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển. Mặt khác, do quá trình sản xuất nông nghiệp, trải qua nhiều thế hệ,người ta đã tạo ra hệ thống sông ngòi dày đặc. Tổng chiều dài các con sông, ngòi của Thái Bình lên tới 8492km, mật độ bình quân từ 5-6km/km2. Hướng dòng chảy của các con sông đa số theo hướng tây bắc xuống đông nam. Phía bắc, đông bắc Thái Bình còn chịu ảnh hưởng của sông Thái Bình.
Hệ Thống sông ngoài đê:
Thái Bình được bao bọc và chia cắt bởi các con sông chính sau:
Phía tây, tây nam và phía nam (đoạn ngã ba sông Luộc đến cửa Ba Lạt) có sông Hồng chảy uốn khúc, quanh co, là nguồn cung cấp nước và phù sa chính cho Thái Bình.
Phía tây bắc là sông Luộc (một chỉ lưu của sông Hồng), đây là sông cung cấp nước cho các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà.
Phía đông bắc là sông Hóa chảy ra cửa sông Thái Bình
Sông Trà Lý (một chỉ lưu của sông Hồng) bắt nguồn từ sông Hồng chảy ra biển, chia đôi Thái Bình thành hai khu: Khu bắc và khu nam
Sông Diêm Hộ, chảy qua một phần huyện Đông Hưng và chia đôi huyện Thái Thụy (phần Thụy Anh, phần Thái Ninh cũ) và chảy ra biển thông qua cống Trà Linh
Có thể nói Thái Bình như một vùng đất "cù lao" ba bề là song, một bề là biển.
Hệ thống sông trong đê:
Ngoài hệ thống sông ngoài đê. Thái Bình còn có hệ thống sông ngòi trong đê chằng chịt chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho đồng ruộng và sinh hoạt của người dân. Sau đây là một số sông nội bộ của tỉnh:
Khu vực bắc Thái Bình:
 Sông Tiên Hưng: Vốn là con sông tự nhiên chạy uốn quanh các huyện Hưng Hà và Đông Hưng. Sông dài 51km, rộng 50-100m, tưới tiêu cho các vùng đất ven sông và là đường giao thông thủy quan trọng của vùng này.
Sông Sa Lung: Sông đào, khởi công từ năm 1896 đến năm 1900 thì, dài khoảng 40km, chảy qua các phủ huyện Hưng Nhân, Duyên Hà (nay là Hưng Hà) Tiên Hưng, Đông Quan (nay là huyện Đông Hưng), Thái Ninh nay là huyện Thái Thụy.
Sông Quỳnh Côi: Còn gọi là sông Yên Lộng hay sông Bến Hiệp. Đây là con sông đào xuyên qua một phần huyện Quỳnh Phụ, xuôi xuống Đông Hưng, có chiều dài khoảng 15 km, bắt đầu từ cống Bến Hiệp nối với sông Tiên Hưng ở xã Liên Giang.
Sông Đại Nẫm: Cũng là con sông chạy qua huyện Quỳnh Phụ, dài 16km, bắt nguồn từ cống Đại Nẫm nối với Diêm Hộ.
Sông Diêm Hộ: Là con sông tiêu nước quan trọng nhất trong hệ thống thủy nông ở khu vực bắc Thái Bình. Hầu hết các con sông nội đồng trong khu vực đều đổ ra sông Diêm Hộ. Khi chưa có cống Trà Linh, sông Diêm Hộ trở thành con sông trong đê với chức năng chính là tiêu úng cho các huyện phía bắc Thái Bình.
 Sông Thuyền Quan: Là con sông đào, nối với sông Tiên Hưng ở ranh giới xã Đông Giang - Đông Kính, với sông Sa Lung ở xã Đông Vinh, với sông Trà Lý ở ranh giới xã Đông Lĩnh (Đông Hưng) - Thái Hà (Thái Thụy) dài 9km.
Sông Hệ: Nối sông Hóa với sông Diêm Hộ, dài 12km, chạy qua mấy xã thuộc Quỳnh Phụ, Thái Bình.
* Khu vực nam Thái Bình
Sông Cự Lâm: Chảy từ sông Trà Lý ở xã Xuân Hòa qua các xã Hiệp Hòa, Song Lãng, Minh Lãng, Minh Quang, nối với sông Vĩnh Trà ở Thị trấn Vũ Thư, huyện Vũ Thư. Đoạn sông này dài 14km.
Sông Búng: Chảy qua các xã Hiệp Hòa, Việt Hùng, Dũng Nghĩa, Tân Lập, nối sông Trà Lý với sông Hồng, dài khoảng 13km.
Sông Bạch: Chảy từ cống Nạng (sông Trà Lý) ở ranh giới xã Tân hòa, Phúc Thành uốn lượn qua Tân Phong, Tân Bình (Vũ Thư), phường Tiền Phong, xã Phú Xuân, nối với sông Vĩnh Trà ở phường Phú Khánh Thành phố Thái Bình.
Sông Kiến Giang: Là con sông đào gồm nhiều đoạn khác nhau. Dòng chính nối từ sông Vĩnh Trà ở Thành phố Thái Bình, qua một số xã ở huyện Vũ Thư rồi chảy qua huyện Kiến Xương, Tiền Hải, đổ vào Sông Lân, dài 30km. Đây là con sông quan trọng cho việc tưới tiêu đồng ruộng phía nam Thái Bình và là đường vận tải thủy quan trọng trong khu vực. Có thể nói, nó là xương sống của hệ thống thủy lợi khu nam Thái Bình. Nó có hệ thống sông ngòi, mương máng nối với sông Hồng, sông Trà Lý thông qua các cống. Hầu hết các con sông khác trong khu vực đều có mối liên hệ với sông Kiến Giang, như sông Nguyệt lâm, Dực Dương... Sông Kiến Giang là con sông tương đối đẹp, một nơi có đôi bờ là điểm quần tụ dân cư đông đúc, trù phú, làng mạc xanh tươi.
Sông Nguyệt Lâm: Là sông đào đi từ cống Nguyệt Lâm, lấy nước từ sông Hồng (xã Vũ Bình, huyện Vũ Thư), nối với sông Kiến Giang ở xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương chiều dài 13km.
Sông Dực Dương: Cũng là sông đào đi từ cống Dực Dương, lấy nước sông Trà Lý, tại vị trí xã Trà Giang, nối sông Kiến Giang ở xã Bình Minh huyện Kiến Xương dài 13km.
Sông Hương: Nối sông Hồng với sông Kiến Giang, từ xã Bình Thanh huyện Kiến Xương đến đến xã Phương Công huyện Tiền Hải.
Sông Lân: Trước kia là một nhánh của sông Hồng đổ ra biển. Hiện nay nó trở thành con sông trong đê, chạy từ ranh giới xã Hồng Tiến (huyện Kiến Xương) - Nam Hải (Tiền Hải) chảy ròng ra biển. Từ ngày đắp đê, xây dựng cống Lân, nó trở thành con sông nội đồng. Con sông này tưới tiêu nước cho huyện Kiến Xương và Tiền Hải. Cống Lân làm nhiệm vụ ngăn nước mặn và tiêu nước mỗi khi ngập úng nội đồng, đồng thời điều tiết tưới tiêu cho khu vực nam Thái Bình.
Sông Long Hầu: Nối sông Trà Lý với sông Kiến Giang từ xã Đông Quý đến xã Đông Lâm (Tiền Hải).
Quá trình hình thành các con sông lớn nhỏ của Thái Bình là sự kết hợp giữa sự phát triển tự nhiên và nhu cầu hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các con sông tự nhiên được hình thành do quá trình vận động của các dòng chảy, bắt đầu từ thượng nguồn, về phía hạ lưu hướng dòng chảy luôn thay đổi do sông uốn khúc nhiều. Sông Hồng trước đây thường hay thay đổi dòng chảy. Từ khi hình thành hệ thống đê điều, dòng chảy của sông Hồng ổn định gần như diện mạo hôm nay. Hệ thống sông trong đê là kết quả quá trình chinh phục của con người, nhằm hạn chế tác hại của thiên tai, tận dụng các điều kiện tự nhiên để tưới tiêu trong nông nghiệp. Trải qua nhiều thập niên, người nông dân Thái Bình liên tục cải tạo, khơi sâu, nắn dòng các con sông nội đồng với mục đích tưới tiêu thuận lợi và một phần phục vu vận tải đường thủy.
 Ao, hồ, đầm
Trên địa bàn Thái Bình không có các hồ, đầm lớn, chủ yếu là các ao nhỏ, nằm xen kẽ với làng xóm hoặc ven đê, ven biển do lấy đất đắp đê hoặc do vỡ đê tạo thành các điểm trũng tích nước. Các ao hồ nhỏ nằm rải rác, xen kẽ các khu dân cư là kết quả của quá trình tạo lập đất ở. Xưa kia, đất được bồi đắp không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, người ta đào ao lấy đất đăp nền nhà, tạo thành vườn tược, và tận dụng nguồn nước từ ao hồ quanh nhà để lấy nước sinh hoạt. Vì vậy phần lớn làng xóm, cư dân của Thái Bình (nhà cửa, ruộng vườn) đều gần với ao đầm. Tổng diện tích ao hồ gần 6.575ha, chiếm 4,25% đất đai của tỉnh. Các ao hồ của Thái Bình thường có diện tích không lớn (khoảng 200-300m2). Những năm gần đây, diện tích một số ao hồ được cải tạo, có xu hướng tập trung thành quy mô trang trại để nuôi tôm cá theo quy trình bán công nghiệp. Bước đầu một số ao hồ nuôi tôm cá đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các vùng nuôi tôm ở các ao đầm ven biển (tôm sú, tôm rảo..)
Biển
Biển Thái Bình nằm trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, là một phần của Biển Đông. Biển Đông là một biển lớn thông với Thái Bình Dương qua các eo biển rộng.
Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc biển Đông, thực ra là phần lục địa bị chìm dưới nước biển do đó biển nông, nơi sâu nhất không quá 200m.
Nước ngầm
Thái Bình là bộ phận của tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc trầm tích bờ rời Đệ Tứ có nguồn gốc song - biển hỗn hợp. Xét về mặt tổng thể thì trầm tích này có khả năng chứa nước rất lớn, mực nước ngầm nông, dễ khai thác.
Theo tài liệu nghiên cứu về địa chất và thủy văn, vùng này có sự phân đới thủy địa hóa theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng như sau:
 Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang:
Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang, lấy sông Trà Lý chảy qua giữa tỉnh làm ranh giới: Phía bắc sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ và một số xã thuộc huyện Thái Thụy gần khu vực sông Hóa, nằm trong đới nước ngọt có tổng độ khoáng hóa dao động từ 300-500mg/l. Các tầng chứa nước ngọt rất tốt. Phía nam sông Trà Lý bao gồm các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, phần lớn huyện Thái Thụy và Thành phố Thái Bình nằm trong đới nước mặn. Các lỗ khoan cho thấy, nước khoan lên có tổng độ khoáng hóa dao động trong khoảng 600-2.500mg/l, nước thuộc loại Clorua Natri. Do bị nhiễm mặn nên không đạt tiêu chuẩn dùng cho nước sinh hoạt.
- Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng
Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng từ mặt đất đến độ sâu 140m bao gồm các tầng cách nước và chứa nước sau:
+ Tầng chứa nước nghèo thuộc hệ tầng Thái Bình
+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng chứa ít nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II
+ Tầng cách nước thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc I
+ Tầng chứa nước lỗ hổng thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc II
+ Tầng chứa nước trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ Hà Nội
Tài nguyên ngước, khả năng khai thác và hiện trạng sử dụng
Tài nguyên nước mặt
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, nước tham gia vào quá trình hoạt động sống của giới động, thực vật và con người, quyết định sức khỏe cộng đồng, năng suất mùa màng. Trong công nghiệp, nước cũng không thể thiếu trong các ngành sản xuất hóa chất, chế biến nông sản, chế biến dược...
Nước có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống, vì vậy cần khai thác sử dụng, nước một cách khoa học để phục vụ cuộc sống cộng đồng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước dựa trên đặc tính phân bố trong không gian và theo tính chất thủy động lực.
Tài nguyên nước trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông ngòi dày đặc chứa và lưu thông một lượng nước mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp hàng tỷ m3 từ các con sông lớn như sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng vào đó là lượng nước mưa nhận được hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là điều kiện thuận lợi để cư dân sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã được sử dụng tưới tiêu cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mương, máng tưới tiêu, hệ thống cống tự chảy...
Trên hệ thống đê sông lớn có rất nhiều cống lấy nước từ các con sông tưới cho đồng ruộng, nguồn nước lấy từ sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình..., đem lại nguồn nước tưới cho đồng ruộng về theo đó cung cấp một lượng phù sa đáng kể, giúp cho đồng ruộng của Thái Bình ngày càng thêm màu mỡ.
Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tưới cho đồng ruộng, phục vụ sinh hoạt của cư dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển Đông (nước thải sinh hoạt, nước thau chua, rửa mặn đồng ruộng).
Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co, ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông nước, đồng ruộng, vườn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng.
Tuy vậy, những năm gần đây do việc sử dụng nguồn tài nguyên nước mặt ở một số nơi không hợp lý và khoa học, việc sử dụng nước mặt thiếu ý thức của một bộ phận dân cư đã dẫn đến việc nguồn nước mặt ở một số nơi bị ô nhiễm, chất lượng nước ở những nơi này thường kém, không đủ tiêu chuẩn nước sinh hoạt. Vì vậy, cần phải giáo dục trong cộng đồng ý thức bảo vệ nguồn nước, tài nguyên nước mà thiên nhiên ban tặng cho con người.
Để bảo vệ tốt tài nguyên nước mặt, ngoài giáo dục cộng đồng ý thức bảo vệ nguồn nước, cần phải có các biện pháp đồng bộ:
- Quản lý chặt chẽ các nguồn nước thải công nghiệp, nước sinh hoạt (nhất thiết phải qua xử lý các chất độc hại trước khi đổ ra hệ thống sông ngòi.
- Khơi thông các dòng chảy bằng biện pháp nạo vét các dòng sông nội đồng thường xuyên. Hạn chế việc lấn chiếm các hệ thống sông ngòi gây cản trở dòng chảy.
- Phối hợp điều tiết dòng chảy thông qua hệ thống tưới tiêu thật nhịp nhàng và khoa học.
- Rác thải công nghiệp, rác thải sinh hoạt ở các khu đông dân cư, cần gom xử lý, không vứt bừa bãi xuống các dòng sông gây ô nhiễm, làm tắc nghẽn dòng chảy.
- Trong sản xuất nông nghiệp, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật phải tuân thủ sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn và phải kiểm tra chặt chẽ, không để thuốc bảo vệ thực vật làm ô nhiễm nguồn nước mặt.
- Các nguồn nước dùng trong sinh hoạt của cộng đồng cần được xử lý, đảm bảo nước sạch cho sinh hoạt.
Tài nguyên nước ngầm
Như trên đã cho thấy, tài nguyên nước ngầm tầng mặt và tầng sâu của Thái Bình tương đối phong phú, song đa phần không thể sử dụng ngay được cho sinh hoạt.
Các tầng chứa nước nông đều có hàm lượng sắt cao, vượt quá tiêu chuẩn cho phép; Để dùng được phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích của các loài thực vật, có xuất hiện các ion độc hại như NH4, NO2, P04, S...
Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ tầng Hà Nội sâu 80-140m có khả năng chứa nước lớn, có giá trị cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cho những trạm xử lý và cung cấp nước trung bình và nhỏ. Do tầng chứa nước ở dưới sâu nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước trong tầng này được bảo vệ bởi các tầng chứa nước phía trên. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn khi khai thác và sử dụng, cần lưu ý biện pháp bảo vệ và khai thác với mức độ hợp lý.
Nước ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m, mùa mưa chỉ đào sâu chưa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nước ngầm trên mặt, nếu đào sâu xuống sẽ gặp nước mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng trong sinh hoạt ngay được mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ, Hưng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn.

Tiềm năng khoáng sản

Tỉnh Thái Bình có các khoáng sản: Khí đốt, than nâu, titan (ilmenit), sét gốm, sét gạch ngói, nước khoáng nóng, kết quả nghiên cứu cụ thể như sau:             Mỏ khí đốt
Khu mỏ khí đốt Tiền Hải thuộc địa phận huyện Tiền Hải. Đây là mỏ khí đầu tiên đã được khai thác ở Việt Nam. Mỏ khí đốt Tiền Hải là mỏ khí nhỏ, địa tầng, áp suất vỉa trung bình, cấu trúc địa chất phức tạp. Kết quả nghiên cứu tại các giếng khoan thăm dò và khai thác khí cho thấy: Mỏ khí đốt Tiền Hải có 13 vỉa khí có giá trị công nghiệp, nằm trong phụ hệ tầng Tiên Hưng dưới (N31th1) và giữa (N31th2). Các thân khí của mỏ Tiền Hải hầu hết có dạng vòm, dạng màn chắn thạch học, dạng hỗn hợp(vòm + màn chắn thạch học). Vỉa khí sâu nhất nằm cách mặt đất 1178m, vỉa nông nhất cách mặt đất 468m. Công ty khai thác Thái Bình đã thực hiện khoan 12 giếng khoan thăm dò và khai thác khí. Mỏ bắt đầu được khai thác từ tháng 7/1981. Khí của mỏ là khí cháy cacbuahydro không có thành phần khí hại như H2S, không có heeli, hàm lượng Nito cao, có vỉa khí chứa Condensat (khí nặng), chứa khí khô hoàn toàn. Mỏ khí đốt Tiền Hải được khai thác phục vụ cho Khu công nghiệp Tiền Hải gồm 16 doanh nghiệp (sản xuất xi măng trắng, gạch ốp lát, gạch men, sứ mỹ nghệ xuất khẩu, thủy tinh..)
Than nâu
Điểm than nâu dưới lòng đất các huyện Tiền Hải và Kiến Xương, diện phân bố than được kẹp bởi 2 đứt gãy sau: Sông Chảy và Vĩnh Ninh kéo dài theo hướng tây bắc đông nam (đứt gãy Vĩnh Ninh nằm kẹp giữa đứt gãy sông Chảy và sông Lô). Diện tích chứa than là hố sụt địa hào neogen dài 70km, rộng 7-10km (trung bình là 8km). Các vỉa thấu kính than nâu nằm trong hệ tầng Tiên Hưng (thuộc đủ ba hệ tầng dưới, giữa, trên, nằm ở độ sâu 500-1200 m. Khu vực chứa than là nếp lồi thoải có phương thức kéo dài theo hướng tây bắc – đông nam cách tây nam dốc 5º-10º, cánh Đông Bắc dốc 30º-32º. Than có cấu tạo dạng lớp, vỉa, thấu kính không liên tục. Số vỉa than có khoảng 50-58 vỉa, chiều dày vỉa than từ 1m (Tiền Hải) đến 5m (Kiến Xương). Than có chất lượng tốt, màu nâu đen, ánh nhựa, rắn chắc, cấu tạo dạng khối, nghèo tro, nghèo lưu huỳnh, nhiệt lượng tương đối cao, khả năng bốc nóng bốc cháy khó. Đây là loại than nâu lửa dài, nhãn hiệu b2-b3, dùng trong công nghệ hóa học, công nghệ xi măng và làm phối liệu trong luyện cốc. Tài nguyên dự báo cấp p2 là 47 triệu tấn. Điểm quặng có triển vọng, tuy vậy than phân bố ở quá sâu nên điều kiện khai thác khó khăn.
Titan(ilmenit) sa khoáng ven biển
Sa khoáng ven biển đều có tuổi Hacocen có các nguồn khác nhau.
Cửa sông Trà Lý, cửa sông Hồng: Độ sâu lớp đất từ 1-1,5m cát màu xá, hạt nhỏ, phần trên có các ititan sa khoáng hàm lượng nghèo (từ 600-3580/cm3). Nguồn gốc thành tạo là song - biển – đầm lầy.
Bờ biển và đồng bằng ven biển từ cửa sông Thái Bình đến sông Hồng: Thành phần là các hạt nhỏ, hạt vừa, sa khoáng màu xám nâu, xám vàng. Titan sa khoáng hàm lượng nghèo từ (vài trăm g/m3 đến 5.000g/cm3). Nguồn gốc thành tạo là tích tụ biển.
Cồn Thái Ninh (cửa sông Trà Ly): Từ 0-0,5m cát hạt nhỏ, xám nâu, xám vàng, chứa titan sa khoáng hàm lượng nghèo từ (600-1000g/m3); từ 0,5 -1,3m cát màu xám đen, xám nâu hạt nhỏ phân lớp ngang, chứa titan sa khoáng hàm lượng cao (19-20kg/m3) từ 1,3m trở xuống cát màu xám vàng, hạt nhỏ đến trung bình chứa titan sa khoáng hàm lượng nghèo. Nguồn gốc tành tạo là bin - bin gió.
Sét gốm
Đến nay, Thái Bình mới tìm thấy 1 điểm sét gốm Cộng Hòa. Điểm quặng thuộc địa phận 2 xã Hòa Tiến và Canh Tân huyện Hưng Hà. Trung tâm điểm sét gốm Cộng Hòa cách huyện lỵ Hưng Hà 7km về phía tây bắc. Điểm quặng được Thủy lợi Thái Bình phát hiện năm 1992. Sét gốm Cộng Hòa thuộc hệ tầng Hải Hưng trên, nguồn gốc biển. Thân sét gốm dài 4900m, rộng 50-1650m (trung bình 730), dày 0,8-1,2m (trung bình 1m). Mặt cắt khu vực điểm quặng như sau:
0-0,3m lớp đất trồng
0,3-0,5m sét bột, bột sét màu xám nâu, xám vàng. Lớp này sử dụng sản xuất gạch.
0,5-1,7m sét màu trắng, xám trắng, phớt vàng, hạt mịn, ngấm nước dẻo, dễ tạo hình, sét xốp nhẹ. Đây là lớp sản xuất sét gốm
1,7-2,8m sét màu xám xanh, hạt mịn ngấm nước dẻo.
2,8-4,0m cát bột, bột cát sét, màu xám, xám đen, độ dẻo kém.
Mẫu chế thử loại sét gốm Cộng Hòa cho kết luận: Có thể dùng làm đồ gốm, đồ sành không tráng men nhu chum vại với các kích cỡ khác nhau không cần phối liệu có chất lượng cao. Dùng 50% sét Cộng Hòa trộn với 50% sét kaolin, sản xuất được loại bình hoa da lươn có chất lượng tốt.
Tài nguyên dự báo cấp p2 là 9,3 triệu tấn. Cần mở rộng diện tích tìm kiếm thêm các thân quặng tương tự ở phụ hệ tầng Hải Hưng nguồn gốc biển.
Sét gạch ngói
Sét gạch ngói Kim Trung: Điểm quặng thuộc xã Kim Trung huyện Hưng Hà, cách thị trấn huyện khoảng 1km. Sét gạch ngói Kim Trung có nguồn gốc sông, phụ hệ tầng Thái Bình trên. Sét gạch ngói phân bố ven bờ sông Tiên Hưng về phía tây bắc - đông nam. Mỏ sét gạch ngói có chiều dài 6000-7000m, rộng 1000-3500m, dày 0,9-1,1m. Lớp đất khai thác sản xuất làm gạch ngói được lấy lên từ độ sâu 0,4-1,5m. Sét có chất lượng tốt. Hiện nay xí nghiệp gạch ngói Kim Trung và nhân dân đang khai thác sử dụng. Quy mô điểm quặng khá lớn. Xí nghiệp gạch ngói Kim Trung sản xuất với sản lượng 3,5-5 triệu viên gạch và 2 triệu viên ngói/năm.
Ngoài ra còn một số điểm sét gạch ngói ở Thái Bình có nguồn gốc trầm tích hỗn hợp sông biển, nguồn gốc sông ở huyện Kiến Xương, ven sông Hồng, sông Trà Lý, sông Kiến Giang.
Nước khoáng nóng
Nước khoáng nóng Tiền Hải: Thuộc xã Duyên Hải, huyện Hưng Hà. Năm 1994 tổ chức UNICEF khi khoan tìm nước sinh hoạt cho tỉnh Thái Bình đã phát hiện ra điểm nước khoáng nóng này. Nước khoáng nóng gặp ở độ sâu 64-65m (chưa khống chế hết độ sâu). Các lỗ khoan ở Hưng Hà đã gặp nước khoáng nóng trong trầm tích Đệ Tứ. Thứ tự địa tầng từ trên xuống gồm:
+ Hệ tầng Thái Bình: Bột sét, bột sét lẫn cát mịn màu xám nâu, xám vàng dày 6-8m.
+ Hệ tầng Hải Hưng: Bột sét, sét xám nâu, xám trắng phớt vàng, rải rác có các ổ, thấu kính sét xám trắng, hạt mịn, chất lượng tốt, ở phần dưới lẫn mùn thực vật màu xám đen. Dày 5-7m
+ Hệ tầng Vĩnh Phúc: Sét bột, bột sét lẫn cát màu xám nâu, xám vàng, loang lổ, cát sạn sỏi thành phần đa khoáng dày 15-17m.
+ Hệ tầng Hà Nội: Cát hạt mịn, hạt thô, cuộn sạn sỏi thành phần đa khoáng, rải rác có lẫn sét bột, màu xám nâu, xám vàng. Đây là tầng khoáng nóng. Tầng có chiều dày từ 10-63,5m.
Trong vùng có nước khoáng nóng phát triển hai hệ thống đứt gãy sâu liên quan đến nguồn nước khoáng nóng, hướng đứt gãy là á kinh tuyến và tây bắc- đông nam. Khu vực phân bố nước khoáng nóng có phương kéo dài tây bắc- đông nam, dài2250m, rộng120-1000m (trung bình là 600m). Tổ chức UNICEF khoan 17 lỗ khoan, có 10 lỗ khoan gặp nước khoáng này, 4 lỗ khoan có nước nóng nhất (nhiệt độ 42º-50ºC), các lỗ khoan còn lại nhiệt độ thấp hơn. Nước không màu, không mùi vị, độ PH 6,5-7,2 (trung bình 6,86). Lưu lượng nước đo được khi bơm hút trong lỗ khoan từ 0,25 - 0,61 lít/giây. Nước khoáng nóng có vị nhạt, là loại bicacbonatnatri hoặc bicacbonatnatri canxi.
Độ tổng khoáng hóa 0,47-0,5g/l. Nước có nguồn gốc liên quan với đứt gãy sâu đang hoạt động. Nước khoáng nóng Duyên Hải có chất lượng tương tự với nước khoáng nóng Tiền Hải. Đây là nguồn nước có triển vọng về quy mô, chất lượng nước, nước nằm ở độ sâu không lớn, do đó cần có đầu tư nghiên cứu chi tiết hơn để sớm khai thác nguồn nước quý giá này.
Nước khoáng nóng Tiền Hải: Thuộc xã Đông Cơ, huyện Tiền Hải. Năm 1975, Công ty Khai thác khí Thái Bình (nay là Xí nghiệp Dầu khí Thái Bình) đã tiến hành khoan lỗ khoan 61 tìm kiếm thăm dò dầu khí đến dộ sâu 2400m. Từ đáy lên gặp các vỉa T1 đến T13 chứa khí và nước khoáng nóng, trong đó có 4 vỉa chứa khí.
Sau khi kết thúc công tác khai thác khí, Xí nghiệp Dầu khí Thái Bình (XNDKTB) đã tiến hành lấp kín vỉa khí, bắn mìn mở vỉa khí nước khoáng. Nước khoáng được khai thác ở vỉa có độ sâu từ 421-397m(24m) chiếm 63% chiều dày vỉa. Nhiệt độ nước của vỉa có độ sâu 380m là 41ºC, nhiệt độ nước trên miệng giếng là 34º5. Vỉa nước khoáng là vỉa có áp, áp suất vỉa đo được ban đầu là 41,391atm. Nước khoáng là loại clorua bicacbinat kiềm, lưu lượng thấp, độ tổng khoáng hóa thấp 1,17g/l, độ PH 8,2.
Năm 1993-1996, nước khoáng chỉ khai thác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho cán bộ, công nhân viên XNDKTB. Từ tháng 12-1996 đến nay, nước khoáng khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt. Tính từ 1996-2000, lượng nước đã khai thác phục vụ sinh hoạt, bán lẻ, chủ yếu là bán cho nhà máy nước khoáng vital, Công ty bia Việt Hà. Theo thiết kế ban đầu, giếng khoan 61 có thể cấp được 30m3/ngày đêm. Tng sản lượng khai thác từ đầu năm 1993 đến năm 2000, ước tính 29 nghìn m3
 Đặc điểm khí hậu
Khí hậu Thái Bình mang tính chất cơ bản là nhiệt đới ẩm gió mùa. Thái Bình có nhiệt độ trung bình 23º-24ºC, tổng nhiệt độ hoạt động trong năm đạt 8400-8500ºC, số giờ nắng từ 1600-1800h, tổng lượng mưa trong năm 1700-2200mm, độ ẩm không khí từ 80-90%. Gió mùa mang đến Thái Bình một mùa đông lạnh mưa ít, một mùa hạ nóng mưa nhiều và hai thời kỳ chuyển tiếp ngắn.
Khí hậu Thái Bình mang tính chất cơ bản là nhiệt đới ẩm gió mùa. Thái Bình có nhiệt độ trung bình 23º-24ºC, tổng nhiệt độ hoạt động trong năm đạt 8400-8500ºC, số giờ nắng từ 1600-1800h, tổng lượng mưa trong năm 1700-2200mm, độ ẩm không khí từ 80-90%. Gió mùa mang đến Thái Bình một mùa đông lạnh mưa ít, một mùa hạ nóng mưa nhiều và hai thời kỳ chuyển tiếp ngắn.
Là tỉnh đồng bằng nằm sát biển, khí hậu Thái Bình được điều hòa bởi hơi ẩm từ vịnh Bắc Bộ tràn vào. Gió mùa đông bắc qua vịnh Bắc Bộ tràn vào. Gió mùa đông bắc qua vịnh Bắc Bộ vào Thái Bình làm tăng độ ẩm so với những nơi khác nằm xa biển. Vùng áp thấp trên đồng bằng Bắc Bộ về mùa hè hút gió biển bào làm bớt tính khô nóng ở Thái Bình. Sự điều hòa của biển làm cho biên độ nhiệt tuyệt đối ở Thái Bình thấp hơn ở Hà Nội 5ºC.
Ngay trong phạm vi tỉnh, sự điều hòa nhiệt ẩm ở vùng ven biển Thái Thụy, Tiền Hải rõ rệt hơn những vùng xa biển. Biên độ nhiệt trung bình trong năm ở Diêm Điền là 12,8ºC, còn ở thành phố Thái Bình là 13,1ºC. Tuy nhiên do diện tích nhỏ, gọn và địa hình tương đối bằng phẳng nên sự phân hóa theo lãnh thổ tỉnh không rõ rệt
 Động vật
Đặc điểm địa lý Thái Bình là ít có quỹ đất cho thực vật tự nhiên phát triển, vì vậy khó có chỗ trú ẩn cho các loài động vật tự nhiên. Đặc điểm địa lý Thái Bình là ít có quỹ đất cho thực vật tự nhiên phát triển, vì vậy khó có chỗ trú ẩn cho các loài động vật tự nhiên.
- Các loài thú:
Thái Bình rất nghèo các loài thú, chỉ có một vài loài cáo, chồn nhưng rất hiếm, bởi vì chúng không có chỗ trú ẩn.
- Các loài chim:
Tại Thái Bình, các nhà điều tra được 149 loài chim, đặc biệt là tìm ra được hai khu vực sinh cảnh có tầm quan trọng quốc tế đó là vùng chim Thái Thụy, Tiền Hải. Hai vùng này được xếp loại 2 và 3 trong tổng số 5 loại của quốc gia và đạt 25,19 điểm/44 điểm. Cả hai vùng này đều nằm ở ven biển có rừng ngập mặn. Cũng theo kết quả điều tra, ngoài các loài chim phổ biến như chích chòe, rẻ quạt, diều hâu, cú mèo... thì các vùng sinh cảnh đặc biệt thuộc Thái Thụy, Tiền Hải có hơn một trăm loài đã được ghi nhận.
- Các loài bò sát:
Là vùng đồng bằng ven biển, Thái Bình đất chật người đông nên đã tạo ra sự nhiễu động vốn không thích hợp để các loài bò sát phát triển. Ngoài các bò sát như rắn, thằn lằn, ba ba, loài bò sát đáng chú ý nhất là vích có ở các vùng biển Thái Bình nhưng rất hiếm.
- Các loài cá:
+ Cá biển: Tại vùng biển Thái Bình có 94 loài, 65 giống, 41 họ, chiếm khoảng 10% tổng số loài trong vịnh Bắc Bộ. Một số loài tương đối nhiều như cá bống trắng (13 loài), họ cá trỏng (7 loài), họ cá đối (6 loài), họ cá bơn (5 loài)
+ Cá nước ngọt: Thái Bình là tỉnh đồng bằng ven biển có mật độ ao, hồ, sông, mương máng rất lớn lên đến hàng nghìn hecta. Ngoài việc cấp nước, tưới tiêu, đây còn là nơi có trữ lượng các loại cá nước ngọt rất lớn.
Cá nước ngọt tự nhiên: Các loại như: Cá chép, cá măng, cá rói, cá ngao, cá bò, cá trê....
- Tôm: cũng như các loài cá, tôm có hai loại: Tôm biển và tôm nước ngọt
- Tôm biển: Vùng biển Thái Bình có 18 loài tôm, nhưng quan trọng hơn cả là những loài: Tôm he, tôm lột, tôm sú, tôm he nhật, tôm nương, tôm rảo, tôm hộp...
Tôm nước ngọt: Bao gồm: Tôm càng xanh, tôm càng, tôm trứng, tôm rịu..
- Côn trùng: Có hai loại côn trùng có lợi và côn trùng có hại
 ịa tầng Thái Bình có cấu tạo địa chất ít phức tạp. Các lớp đất đá từ cổ đến trẻ chỉ được nghiên cứu qua các lỗ khoan sâu, các điểm đo địa vật lý. Các lỗ khoan sâu nhất hiện nay tại Thái Bình gặp đá cổ nhất được tạo thành tạo cách đây khoảng 57,8 triệu năm. Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà địa chất, khu vực Thái Bình có cấu tạo địa tầng từ cổ đến trẻ được phân bố gồm: Các hệ tầng trong Đệ Tam và Đệ Tứ.
Thái Bình có cấu tạo địa chất ít phức tạp. Các lớp đất đá từ cổ đến trẻ chỉ được nghiên cứu qua các lỗ khoan sâu, các điểm đo địa vật lý. Các lỗ khoan sâu nhất hiện nay tại Thái Bình gặp đá cổ nhất được tạo thành tạo cách đây khoảng 57,8 triệu năm. Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà địa chất, khu vực Thái Bình có cấu tạo địa tầng từ cổ đến trẻ được phân bố gồm: Các hệ tầng trong Đệ Tam và Đệ Tứ.
Trầm tích Đệ Tam được phân thành 6 hệ tầng thứ tự từ dưới lên trên gồm:
         1: Hệ tầng Phù Tiên
         2: Hệ tầng Đình Cao
         3: Hệ tầng Phong Châu
         4. Hệ tầng Phủ Cừ
         5: Hệ tầng Tiên Hưng
         6: Hệ tầng Vĩnh Bảo
         Trầm tích Đệ Tứ được phân thành 5 hệ tầng thứ tự từ dưới lên trên gồm:
         1: Hệ tầng Lệ Chi
         2: Hệ tầng Hà Nội
         3: Hệ tầng Vĩnh Phúc
         4: Hệ tầng Hải Hưng (cũ)
         5: Hệ tầng Thái Bình
 Đặc điểm địa hình
Nền địa hình Thái Bình là đồng bằng được hình thành cách đây không lâu. Đường bờ biển hiện nay chỉ mới được bồi đắp trong vòng 100-200 năm trở lại đây Nền địa hình Thái Bình là đng bằng được hình thành cách đây không lâu. Đường bờ biển hiện nay chỉ mới được bồi đắp trong vòng 100-200 năm trở lại đây.
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng có địa hình tương đối bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 1%; cao trình biến thiên phổ biến từ 1-2m so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.
Tỉnh Thái Bình nằm trong đồng bằng Bắc bộ, có đặc điểm chung của đồng bằng châu thổ, đồng thời có những nét riêng. Nhìn chung đất Thái Bình được bồi đắp từ phù sa của các dòng sông lớn: Sông Hồng, sông Trà Lý, sông Hóa. Trong đó vai trò bồi đắp phù sa của hệ thống sông Hồng là chủ yếu. Quá trình bồi tụ diễn ra liên tục và từ từ, trải qua thời gian dài (hàng nghìn năm), kết hợp với gió bão, sóng biển, diễn biến thủy triều của biển Đông, nên ở đây địa hình thấp, bằng phẳng. Song hành với thời gian diễn ra sự bồi tụ của tự nhiên còn phải kể đến trí tuệ và sức lao động của con người sống trên mảnh đất này. Họ đã chống chọi với thiên nhiên (bão tố, ngập lụt, hạn hán…), cải tạo đất đai, san gò, lấp trũng để có được những cánh đồng thẳng cánh cò bay và quanh năm tươi tốt như ngày hôm nay. Thái Bình trở thành một trọng điểm lúa nước nằm trong vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ và cả nước.                                             
Thái Bình nằm ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ trừ một phần nhỏ nằm về phía đông bắc (phía đông huyện Quỳnh Phụ, phía Bắc huyện Thái Thụy) chịu ảnh hưởng của cả hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Phần còn lại chịu ảnh hưởng của hệ thống Sông Hồng, tức là đất phù sa bồi tụ hầu như toàn bộ diện tích toàn tỉnh đều do hệ thống sông Hồng đưa từ thượng nguồn về, kết hợp với phù sa sông Thái Bình bồi đắp tạo thành dải đất bằng phẳng, màu mỡ.
Phần đất phía đông, gồm huyện Tiền Hải, Thái Thụy và một phần phía đông nam huyện Kiến Xương có thể coi là diện tích đất mới được bồi tụ, lắng đọng, phần còn lại nằm sâu trong đất liền phù sa được bồi đắp lâu ngày.
Thái Bình có khoảng 50km bờ biển, đây là nguồn lợi đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản và giao lưu buôn bán theo đường bờ biển, song đây cũng là mối hiểm họa của tự nhiên luôn thường trực đe dọa tính mạng, tài sản của cộng đồng dân cư (bão, thủy triều dâng cao, lốc xoáy…). Tác động bất lợi của tự nhiên gây ra ngập lụt, vỡ đê, nước mặn xâm nhập vào sâu đất liền gây thiệt hại của tự nhiên, người dân Thái Bình đã biết huy động trí tuệ, sức lực của mình đắp đê sông, đê biển; Cải tạo đồng ruộng, san ghềnh, lấp trũng, đào các hệ thống kênh mương chống úng ngập, tưới tiêu, dùng các biện pháp thủy lợi để thau chua, rửa mặn, biến các vùng đất mới được bồi đắp thành đồng ruộng tốt tươi, làng xóm trù mật.
Diên tích đất tự nhiên của tỉnh Thái Bình là 1.546km2, vào loại nhỏ so với các tỉnh trong toàn quốc, nhưng đã trở thành địa bàn sản xuất lúa gạo quan trọng của đất nước.
Các nhân tố hình thành và phát triển địa hình
Nhóm các nhân tô nội sinh
Các nhân tố nội sinh có vai trò quan trọng, tạo nên cơ sở vật chất ban đầu những đường nét cơ bản của địa hình. Nhóm này gồm ba nhân tố chính đó là: Vận động kiến tạo, kiến trúc địa chất và cấu tạo nhan thạch (kiến trúc hình thái).
Vận động kiến tạo
Toàn tỉnh Thái Bình thuộc vùng đồng bằng thấp nằm trong vùng sụt võng Hà Nội. Mặc dù đồng bằng được thiết lập trên móng uốn nếp với nền đất đá kết tinh nhưng bị sụt lún vào cuối đại C sinh. Các chuyển động lún sụt mạnh nhất vào Mioxen, được lấp đầy các trầm tích dầy 40-60m với thành phần bột, sét, sét bột thuộc tướng bãi bồi sông hoặc hỗn hợp sông biển, hình thành trong điều kiện sóng yếu và dư thừa vật liệu hạt mịn.
Hoạt động lún sụt diễn ra cách đây hàng 4-5 nghìn năm với biên độ 4 - 4,5m, khiến cho vùng đồng bằng Thái Bình có độ cao thấp, thấp hơn 3m đều bị ngập trong nước biển, tạo nên một trầm tích mới.
Cấu trúc địa chất
Theo tài liệu mới nhất năm 2003 của Viện Địa lý(Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) thì đất Thái Bình có nền móng cứng của khu vực nằm sâu dưới 4000-6000 m, được phủ bởi các lớp trầm tích. Trên cùng là trầm tích phù sa hiện đại đang hình thành lớp phủ thổ nhưỡng dày 1-2m, màu đỏ mịn, luôn luôn bị biến đổi do được bồi đắp. Tuy quá trình đó bị chậm lại do hệ thống sông đê, làm tăng độ cao của lòng sông, nhưng lại thúc đẩy quá trình tiến ra biển nhanh hơn. Những vùng trũng ở độ sâu 1-2m hay gặp xác thực vật. Đới ven biển được phủ bởi trầm tích Đệ Tứ dày tới 20m, chia làm 3 tầng:
Tầng cuộn, sỏi, cát khô, xen xét sâu 100 đến 150-190m
Tầng cát mịn dưới dày từ 40-60m đến 100m
Tầng trên dày trên 40-60m
Quá trình hình thành và phát triển của châu thổ là sự tng hòa của các yếu tố sông – biển. Xen kẽ các dải phù sa là các cồn cát có dạng hình nan quạt hay cánh cung cong ra biển. Các vùng này bị lấp bằng do tác động của nước và gió.
Nhóm các nhân tố ngoại sinh
Các nhân tố ngoại sinhđóng vai trò quyết đinh các kiểu địa hình hiện có của Thái Bình. Các nhân tố ngoại sinh bao gồm yếu tố khí hậu và hoạt động của con người.
Tác động của khí hậu: Tỉnh Thái Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, nhiệt độ trung bình năm trên 20ºC, lượng mưa trên dưới 1.900mm, độ ẩm cao trên 85%. Trong điểu kiện khí hậu như vậy, quá trình phong hóa vật lý và hóa học diễn ra mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho các quá trình chuyển hóa và lắng đọng các vật liệu xói mòn được đưa từ thượng nguồn các sông mang về, tạo nên các vùng đất đai của Thái Bình.
Tác động của nước: Một yếu tố quan trọng nữa góp phần tạo nên địa hình của Thái Bình là sóng, dòng chảy của biển Đông.Sóng và dòng chảy của biển có tác dụng đưa phù sa vào gần bờ và lắng đọng thành các cồn, bãi, chỗ cao, chỗ thấp khác nhau; Trải qua thời gian dài, chúng được bồi đắp cao dần lên tạo ra địa hình ven biển có hình nan quạt hướng ra biển.
Tác động của sinh vật: Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong việc chắn sóng, cố định phù sa, giúp cho quá trình bồi tụ diễn ra nhanh chóng.
Hoạt động của con người: Đây là yếu tố quan trọng nhất làm thay đổi địa hình qua từng thời kỳ lịch sử đất Thái Bình. Bàn tay lao động của con người đã làm thay đổi địa hình ban đầu, tạo ra địa hình như ngày nay thông qua việc đào sông ngòi, kênh mương, đắp đường sá, đê điều và lập ra các khu dân cư, ruộng vườn.
Các kiểu địa hình
Về tổng thể, Thái Bình là một tỉnh đồng bằng, không có đồi núi, bao gồm các cánh đồng bằng phẳng, xen kẽ các khu dân cư, mạng lưới sông ngòi chằng chịt, độ cao trung bình của tỉnh không quá 3m so với mực nước biển. Các độ cao trên 3m được thiết lập là do con người tạo nên bởi việc đắp đê ngăn nước của các con sông lớn như: sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hóa, sông Thái Bình, đê ngăn nước biển và một số cồn cát sát biển Đông. Phần nội đồng có diện tích lớn tương đối bằng phẳng. Độ cao của các vùng trong tỉnh cũng có sự chênh lệch tuy không lớn, song nó quyết định việc trồng cấy, việc xây dựng công trình, đường sá, nhà cửa và các công trình dân dụng khác. Trong lĩnh vực thủy lợi, dựa vào sự chênh lệch về độ cao của các vùng để tính toán xây dựng các công trình tưới tiêu hợp lý và khoa học. Cùng với chất đất, độ cao của từng vùng cũng quyết định đến hướng canh tác của từng đối tượng cây trồng (cây lúa nước hay trồng màu).
Nhìn vào bản đồ địa hình của tỉnh Thái Bình, nếu các đường đồng mức với độ chênh 1m, ta thấy chỉ có khoảng 4 đường cong. Nhìn bao quát trên bản đồ thì đất Thái Bình dốc từ tây bắc xuống đông nam. Cụ thể là vùng phía bắc huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, phía tây huyện Vũ Thư có địa hình tương đối cao. Vùng phía nam huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Đông Hưng và và một phần huyện Thái Thụy có độ cao thấp hơn. Vùng ven biển lại có địa hình cao hơn so với vùng giữa, vùng này bao gồm phía đông nam huyện Thái Thụy, các xã ven biển của huyện Tiền Hải.
Sông Trà Lý chạy dài từ tây bắc xuống đông nam chia Thái Bình thành hai khu:
Khu bắc Thái Bình, gồm các huyện Đông Hưng, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, Thái Thụy.
Khu Nam Thái Bình, gồm phần lớn thành phố Thái Bình; Các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải.
Khu bắc Thái Bình: Có địa hình cao ven sông Hồng, sông Luộc, thấp dần về phía đông nam rồi lại cao dần lên ở dải đất ven biển (từ cửa sông Trà Lý đến cửa sông Thái Bình và một dải đất cao phía nam sông Hóa.
Khu nam Thái Bình có đặc điểm địa hình cao ở phía tây bắc, nơi ngã ba sông Hồng và sông Trà Lý rồi dốc dần về phía đông nam. Thấp nhất là đoạn giữa và cao dần lên ở đoạn cuối ven biển.
Các khu vực địa hình
Có thể chia địa hình Thái Bình thành các khu nhỏ như sau:
Loại hình ven sông
Loại hình đất cao phía tây bắc
Loại hình đất thấp ven sông Hóa
Loại hình đất trũng ở giữa tỉnh
Loại hình đất tương đối cao ven biển
Loại hình ven sông là đất sa bồi ven sông nằm ngoài đê. Ở Thái Bình,loại hình đất này không nhiều, gồm một dải đất hẹp ven sông Hồng thuộc các huyện Hưng Hà, Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải. Một dải đất hẹp nằm về phía hữu ngạn sông Luộc thuộc các huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ, nhiều nhất là hai xã Quỳnh Ngọc, Quỳnh Lâm và một số diện tích hẹp nằm dọc theo sông Hóa thuộc huyện Quỳnh Phụ và Thái Thụy. Cuối cùng là dải đất hẹp chạy dọc theo sông Trà Lý. Loại hình ven sông này tương đối cao và bằng phng, màu mỡ.
Vùng đất cao nhất nằm ở phía Tây bắc tỉnh, thuộc các huyện Quỳnh Phụ, Hưng Hà, phía bắc huyện Vũ Thư và một phần huyện Đông Hưng. Vùng đất này có tầng đất dày, màu mỡ.
Loại hình thấp ven sông Hóa chạy dài từ khuỷu sông Luộc và ven sông Hóa. Còn một phần huyện Quỳnh Phụ, Thái Thụy, một phần huyện Đông Hưng là vùng đất thấp, địa hình không bằng phẳng, đất kém màu mỡ.
Loại hình đất thấp nằm ở trung tâm của tỉnh có đất đai bằng phng, khá phì nhiêu nhưng thường hay gặp ngập úng (phía đông nam huyện Vũ Thư, huyện Kiến Xương, phía bắc huyện Tiền Hải, huyện Đông Hưng)
Địa hình tương đối cao ven biển gọi là vùng tiếp giáp biển, gồm các xã phía đông, nam huyện Tiền Hải, đông nam huyện Thái Thụy. Đây là vùng đất cao,chịu tác động trực tiếp của sóng gió biển Đông.
Đáng chú ý là những dải đất cao ven bin có địa hình đặc biệt tạo thành vành đai ven biển. Đất đai được sóng, gió biển Đông tác động, một số nơi tạo thành cồn cát cao (tối đa 3-4m). Đặc biệt từ cửa Trà Lý đến cửa Ba Lạt, dải đất cao ven biển có chỗ rộng vài ba km chúng xen kẽ với đất trũng. Tại một số địa phương thuộc huyện Thái Thụy có những cồn cát cao dài hàng chục km, rộng 1-2km.
Sự hình thành vành đai ven biển có thể theo một quá trình như sau:
Ban đầu phù sa các sông lớn chạy ra biển gặp thủy triều dâng cao, tốc độ chảy chậm lại, và chuyển hướng dòng chảy (sông Hồng ra cửa Ba Lạt có hướng chảy tùy theo mùa,lúc sang trái, lúc sang phải chạy men theo bờ biển, kết hợp với sóng biển phù sa được lắng đọng lâu dần chúnghình thành các bãi, cồn nổi dần lên. Bình thường các bãi mới hình thành khi thủy triều dâng cao ta không nhìn thấy, khi thủy triều rút chúng lộ dần ra. Trải qua thời gian dài, các loài thực vật ngập mặn mọc lên (sú vẹt), các cồn cát phù sa được lắng đọng tạo thành các dải đất rộng lớn cao dần lên. Dưới sự tác động của con người, phù sa bồi đắp đến đâu, người ta lại quai đê chắn sóng, ngăn nước, lấn biển tới đó. Trải qua quá trình lao động của con người: Thau chua, rửa mặn, cải tạo bề mặt của những cồn bãi, đã biến chúng thành đồng ruộng như hiện nay. Điều đó được chứng minh rất rõ ỏ vùng sâu cách biển 10-15km hoặc hơn nữa của huyện Tiền Hải, Thái Thụy chỉ cần đào sâu xuống 1-2m đã thấy cát đen, lẫn xác động vật thực vật biển (vỏ sò, xác thực vật, vảy mi ca..)
Quá trình hình thành các cồn cát ven biển hiện nay vẫn đang tiếp diễn
 Địa chất
Thái Bình là tỉnh đồng bằng, không có núi đồi, độ cao địa hình từ 0,8 đến 2,5m so với mực nước biển và thấp dần về hướng đông nam. Bề mặt địa hình được cấu thành bởi các loại đất đá là trầm tích trẻ được thành tạo từ khoảng 6 nghìn năm trước đây và tiếp tục được bồi đắp cho đến ngày nay.
Thang tầng tự do:
Thang thời gian quốc tế: Đại, Kỷ, Thế, Kỳ (tuổi)
Thang địa tầng quốc tế: Giới, Hệ, Thống, Bậc (tầng đất đá)
Thang địa tầng địa phương: Phức hệ, Loạt, Điệp,Tầng, Phụ tầng.
Thang địa tầng tự do: Hệ tầng, Tập, Vỉa (lớp)
Ngành Thuế Thái Bình: Giữ vững vị thế trong "Câu lạc bộ 2000 tỷ đồng"
Thái Bình là tỉnh nông nghiệp, cũng đang chịu chung với cả nước về ảnh hưởng suy thoái kinh tế  toàn cầu. Tháng 10-2012, cơn siêu bão số 8 (trên cấp gió 15) đã đổ trực tiếp vào Thái Bình  tàn phá hết sức nặng nề, làm cho tỉnh này đã khó khăn càng khó khăn hơn. Trong đó có việc thu các khoản thuế và phí cho NSNN. Song với quyết tâm và nỗ lực rất cao, cán bộ công chức Ngành Thuế Thái Bình đã hoàn thành và hoàn thành vượt dự toán của Bộ tài chính và của HĐND tỉnh giao cho. Đứng vững vị thế trong “Câu lạc bộ 2000 tỷ đồng” thuế và phí.
            Năm 2012, Thái Bình được Bộ Tài chính giao thu ngân sách 1855tỷ đồng. Kết thúc năm, Thái Bình đã thu được 2325,7 tỷ đồng, bằng 125,4% dự toán của Bộ Tài chính giao thu cả năm, bằng 106,9% so với tổng số thu năm 2011. Thuế và phí tuyệt đối vượt 470,7 tỷ đồng so với dự toán được giao. Nếu loại trừ tiền sử dụng đất, thì các nguồn thu ổn định đạt 1655,9 tỷ đồng , bằng 117,9% dự toán giao thu của Bộ tài chính tăng 20,2% so với năm 2011. Một số chỉ tiêu tưởng chừng khó có thể về tới đích, nhưng kết thúc cả năm đạt tỷ lệ thu khá và tăng trưởng cao như: Thu từ DN nhà nước của trung ương đạt 134,5% dự toán năm, tăng 53,7% so với cùng kỳ, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đạt 116,7%, tăng 24,3% so với năm trước, thuế thu nhập cá nhân đạt 130,5% so với dự toán, tăng 47,3% so với cùng kỳ, thu tiền thuê mặt đất, mặt nước đạt 197,5% tăng 47,6% so với năm 2011. Toàn ngành thuế có 10/12 đơn vị đã hoàn thành và hoàn thành vượt dự toán thu cả năm. Chi cục thuế Thái Thuỵ thu đạt 242,6% dự toán,
            Chi cục thuế Vũ Thư đạt 115,1% dự toán, Chi cục thuế Đông Hưng thu đạt 105,5%, Chi cục thuế Hưng Hà đạt 107,7% dự toán, chi cục thuế Quỳnh Phụ đạt 102,4% dự toán, Phòng thuế TNCN thu đạt 164,1% dự toán, phòng kiểm tra 1 thu đạt 117,4% dự toán, phòng kiểm tra 2 thu đạt 156,4% dự toán, phòng kiểm tra 3 thu đạt 123,7% dự toán cả năm.
            Để  có kết quả nêu trên, đối với Ngành thuế Thái Bình thật không dễ dàng gì. Do ảnh hưởng suy thoái kinh tế toàn cầu, khối công nghiệp của tỉnh có hàng loạt doanh nghiệp do không bán được hàng phải tạm thời đóng cửa sản xuất. Thái Bình có 6 khu công nghiệp, trong đó khu CN Tiền Hải đã có gần 50 DN đi vào hoạt động. Năm 2012 do thiếu khí đốt, gía nguyên liệu lên cao, sức tiêu thụ chậm càng sản xuất càng lỗ đã làm cho trên 30% số DN phải tạm dừng hoạt động. Một số còn tạm thời hoạt động nhưng có thời điểm hàng tồn kho lên tới 30%. Ngày 28/10/2012 cơn bão số 8 đổ bộ vào Thái Bình, là cơn bão lớn nhất (siêu bão) từ trước tới nay đã làm cho 100% doanh nghiệp thiệt hại. Công ty gạch ốp lát MiKaDo thiệt hại 20 tỷ đồng, công ty sứ Đông Lâm thiệt hại 25 tỷ đồng… Toàn khối CN Thái Bình thiệt hại gần 1000 tỷ đồng (Báo cáo chính thức của Sở  công thương Thái Bình tháng 10/2012). Bão đổ bộ vào Thái Bình đúng vào lúc một số huyện đang thu hoạch đại trà lúa mùa, đã làm giảm năng suất số diện tích chưa thu hoạch kịp từ 30 - 45%. 100% diện tích vụ đông sớm của Thái Bình mất trắng. Hơn 4000 ha nuôi trồng thuỷ hải sản của hai huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải trôi theo sóng biển. Thái Bình với dân số trên 1,8 triệu người, trong đó 70% sống ở nông thôn, nguồn thu chính là từ nông nghiệp, do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thiên tai tàn phá nên sức tiêu thụ hàng hoá suy giảm nghiêm trọng, đồng nghĩa với TM - DV suy giảm, ảnh hưởng trực tiếp tới thu thuế và phí. Ngoài ra, nhiều địa phương như Hưng Hà, Đông Hưng, Kiến Xương, Tiền Hải… có tuyến quốc lộ đi qua đang thi công nâng cấp, các hộ kinh doanh ven đường gặp khó khăn, nhiều hộ có đơn xin tạm nghỉ.
            Nhận đựơc kế hoạch dự toán giao thu thuế và phí năm 2012 của Bộ Tài chính và dự toán giao động viên của HĐND tỉnh, cán bộ công chức ngành Thuế Thái Bình không khỏi lo lắng, bởi lẽ những khó khăn đã biểu hiện ở trước mắt. Nhưng đứng trước trách nhiệm với tỉnh và chung tay với ngành thuế cả nước về NSNN, cán bộ công chức ngành thuế nêu quyết tâm rất cao: Dù khó khăn đến đâu “Thái Bình vẫn giữ vững vị thế trong câu lạc bộ 2000 tỷ đồng” với ngành thuế cả nước. Bước vào những ngày đầu năm 2012, ngành tổ chức tổng kết  năm 2011 để rút ra những bài học kinh nghiệm “được  và chưa được” trong công tác quản lý, khai thác nguồn thu, biểu dương khen thưởng kịp thời các đơn vị, cá nhân gương mẫu chấp hành luật thuế, tổ chức ký kết giao ước thi đua trong toàn ngành, trong từng chi cục, từng bộ phận, từng tổ đội… Mỗi cá nhân, mỗi bộ phận tự giác xây dựng và đăng ký chương trình hành động. Hàng quý, sáu tháng, cả năm căn cứ vào kết quả thực hiện để bình xét danh hiệu thi đua. Mỗi quý 1 kỳ, cục tổ chức giao ban với các chi cục, các phòng chức năng đánh giá kết quả thu từng loại và sắc thuế, kết quả ở từng khu vực kinh tế.  Đồng thời phân tích, dự báo tác động các mặt tới công tác quản lý và kết quả thu của quý tiếp theo (tác động từ suy thoái, từ cơ chế chính sách…). Trên cơ sở đó bàn các giải pháp khai thác để bù đắp các khoản thiếu hụt do tác động khách quan đưa tới. Một trong số giải pháp của ngành thuế Thái Bình thực hiện là công tác tham mưu cho tỉnh và sự phối hợp với các ngành. Ngay từ đầu năm, ngành tham mưu với UBND tỉnh thành lập ban chỉ đạo thu NSNN các cấp, lấy năm 2012 là năm “thuế và ngân sách”. Nhờ vậy các ngành, các địa phương đã hỗ trợ tích cực ngành thuế luôn bảo đảm tiến độ thu NSNN. Sau khi bàn bạc với ngành thuế, Sở TN -MT đã tập trung  giải quyết kịp thời các khoản thu có liên quan tới đất. Các ngân hàng thương mại đã cung cấp đầy đủ các thông tin dữ liệu về tài khoản của các DN để thực hiện thu thuế qua tài khoản tại ngân hàng. Hệ thống Kho bạc Nhà nước phối hợp với ngành thuế tổ chức hướng dẫn các chủ đầu tư làm các thủ tục khấu trừ và khấu trừ thuế GTGT 2% trên tổng giá trị khối lượng xây dựng cơ bản, thay cho việc đợi quyết toán công trình mới thu nộp thuế. Sở Tài chính phối hợp thực hiện điều chỉnh giá tính thu lệ phí trước bạ, thực hiện ghi thu, ghi chi tiền đền bù đất… rút ngắn được thời gian và các thủ tục rườm rà khác .
            Đồng thời, với việc làm tốt công tác tham mưu cho tỉnh và phối hợp với các ngành, năm 2012 Ngành thuế Thái Bình đẩy mạnh cải cách hành chính và đưa các bộ luật về thuế thực sự đi vào cuộc sống.Về công tác thanh tra, kiểm tra, đã kiểm tra tại cơ quan thuế gần 30.000 hồ sơ khai thuế, qua phân tích đã điều chỉnh 60 hồ sơ, ấn định 400 hồ sơ. Kết quả kiểm tra số thuế điều chỉnh tăng 1.370 triệu đồng. Kiểm tra tại 336 doanh nghiệp, số thuế phát hiện tăng 6375 triệu đồng. Kiểm tra tại 4 đơn vị chi trả đã truy thu số thuế 1.244 triệu đồng, phạt 31 triệu đồng. Thực hiện thanh tra tại 62 đơn vị đã truy thu 24,6 tỷđồng, phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế 2,7 tỷ đồng. Qua thanh tra cũng đã giảm khấu trừ và giảm lỗ của nhiều đơn vị. Tiến hành thanh tra 8 doanh nghiệp FDI có dấu hiệu chuỷên giá, đã giảm số lỗ 86 tỷ đồng, tăng thu nhập chịu thuế 40,4 tỷ  đồng, truy thu thuế về NSNN được 10,1 tỷ đồng.
            Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính năm 2012 Ngành thuế Thái Bình đã đăng ký và cấp mã số thuế cho 470 DN thành lập từ hệ thống đăng ký DN quốc gia (tăng 75% so với năm 2011), cấp mã số thuế cho 1250 hộ kinh doanh cá thể, 4400 hộ nộp thuế thu nhập cá nhân và trên 600.000 hộ nộp thuế sử  dụng đất phi nông nghiệp. Công tác hướng dẫn và đôn đốc hồ sơ khai thuế đúng hạn đạt hơn 90%. Công tác triển khai kê khai thuế qua mạng cũng đạt kết quả cao, toàn tỉnh đã có 580 DN kê khai và gửi tờ kê khai thành công. Công tác hoàn thuế, quản lý nợ cũng có nhiều tiến bộ. Cả năm toàn ngành đã thu được 437,3 tỷ đồng tiền nợ thuế. Công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế (Từ chi cục đến vp cục) vẫn duy trì nền nếp được người nộp thuế đánh giá cao…
            Năm 2013, Ngành thuế Thái Bình được Bộ tài chính giao dự toán thu 2.202 tỷ đồng thuế và phí, tăng 18,7% so với dự toán 2012. Năm 2013 vẫn xác định là năm  còn nhiều khó khăn, thêm vào đó  là các gói giải pháp hỗ trợ thị trường và các DN bằng chính sách miễn giảm thuế của Chính phủ. Hậu quả nặng nề của bão số 8 (10-2012) vẫn còn đó… Thái Bình ước số hụt thu của năm 2013 khoảng 400 tỷ đồng. Với  quan điểm của tỉnh, xác định cho ngành thuế vẫn coi năm 2013 là năm thuế và ngân sách, dù khó khăn đến đâu cũng phấn đấu hoàn thành tốt đẹp dự toán của Bộ tài chính giao cho tỉnh. Ngành thuế Thái Bình đã xây dựng một gói giải pháp, gồm 10 nội dung. Trong đó đề cao công tác tham mưu cho tỉnh để triển khai, quán triệt quan điểm của tỉnh về “năm thuế và NS”. Toàn ngành khởi động phong trào thi đua yêu nước. Trước mắt là hoàn thành dự toán môn bài ngay trong tháng 1, tập trung lực lượng thu thuế GTGT và TNDN, thuế đất phi nông nghiệp hoàn thành dự toán quý I. Đề cao công tác dự báo để điều chỉnh, bảo đảm tiến độ thu. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách hệ thống thuế, bắt nhịp với lộ trình của Chính phủ, yêu cầu của Bộ tài chính và Tổng cục thuế đề ra… Với bề dày truyền thống và thành tích đạt được, cán bộ công chức Ngành thuế Thái Bình đã sẵn sàng vượt qua khó khăn thách thức, quyết tâm giữ vững vị thế của mình trong “Câu lạc bộ 2000 tỷ đồng” thuế và NS 2013.
                                                            Hoàng Duy

UBND tỉnh họp kế hoạch xúc tiến đầu tư năm 2013



            Cập nhật: Thứ 3 ngày 5/3/2013
         Sáng 5/3/2013, UBND tỉnh tổ chức cuộc họp với các sở, ngành thảo luận kế hoạch xúc tiến đầu tư năm 2013. Đồng chí Phạm Văn Sinh - Chủ tịch UBND tỉnh chủ trì hội nghị. Đồng chí Phạm Văn Ca, đồng chí Phạm Văn Xuyên - Phó Chủ tịch UBND tỉnh dự hội nghị.
            Năm 2012, Thái Bình đã tổ chức nhiều đoàn công tác thực hiện xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Thụy Điển, Đức, Canada, Australia, Singapo, Indonesia, Malaysia...Đồng thời tham gia các hoạt động xúc tiến đầu tư trong nước. Cũng trong năm đã có 39 đoàn nước ngoài đã đến thăm, làm việc và tìm hiểu cơ hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại Thái Bình.
            Tuy nhiên kinh nghiệm trong vận động đầu tư còn hạn chế. Các hình thức xúc tiến đầu tư còn đơn giản, chưa tổ chức đầy đủ các công việc tư vấn, hỗ trợ đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, ban quản lý khu công nghiệp, cụm công nghiệp trong công tác xúc tiến đầu tư chưa đồng bộ. Hầu hết các dự án thu hút đầu tư mới trên địa bàn tỉnh trong năm qua có quy mô nhỏ, chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Đây cũng chính là nội dung mà các đại biểu trong hội nghị thảo luận, làm rõ để kế hoạch xúc tiến đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh tại Thái Bình năm 2013 đạt kết quả cao.
            Kết luận hội nghị, đồng chí Phạm Văn Sinh - Chủ tịch UBND tỉnh cho rằng trong năm 2013 hoạt động xúc tiến đầu tư là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Vì vậy, công tác xúc tiến đầu tư cần phải có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên thu hút các dự án vốn đầu tư lớn, công nghệ tiên tiến, nộp ngân sách cao, đảm bảo môi trường bền vững. Đồng chí nhấn mạnh thị trường đầu tư chủ yếu là Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước khác, chọn địa phương cấp tỉnh của Nhật Bản phù hợp để hợp tác đầu tư. Tiếp tục triển khai các hoạt động đầu tư trong nước. Đôn đốc, rà soát, điều chỉnh, hoàn thành quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch khu công nghiệp ven biển. Củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm xúc tiến đầu tư, hoạt động một cửa liên thông nhằm cải thiện môi trường đầu tư theo quan điểm công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư tiềm năng vào Thái Bình trong thời gian tới.
            Cũng tại cuộc họp này, các đại biểu thảo luận về kế hoạch thực hiện chương trình xúc tiến thương mại năm 2013 và chương trình đưa hàng Việt về nông thôn.
                                                               Theo Thaibinhtv vn      
HĐND và UBND tỉnh tổ chức hội nghị góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi



           Cập nhật, Thứ năm, 07/3/2013           
           Sáng ngày 07/03/2013, HĐND và UBND tỉnh tổ chức hội nghị góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Đồng chí Trần Cẩm Tú- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đến dự. Đồng chí Nguyễn Hồng Diên- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, đồng chí Phạm Văn Sinh- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đồng chủ trì hội nghị.
            Cùng dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, đại biểu HĐND tỉnh
            Đồng chí Nguyễn Hồng Diên- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đọc lời khai mạc, nêu rõ tầm quan trọng của các bản hiến pháp đối với lịch sử cách mạng của dân tộc. Hiến pháp năm 1992 thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới, khẳng định bước phát triển về nhận thức, đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta.
            Qua hơn 20 năm thực hiện hiến pháp, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, để phù hợp với tình hình mới của đất nước, thì việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một yêu cầu tất yếu khách quan. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có 11 chương với 124 điều, trong đó bổ sung mới 11 điều, sửa đổi 102 điều, giữ nguyên 12 điều, giảm 1 chương và 23 điều so với hiến pháp năm 1992. Cùng thời gian này, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến vào Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi lần này có 14 chương với 206 điều, tăng 7 chương và 60 điều so với Luật Đất đai năm 2003.
            Đồng chí yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, lãnh đạo chủ chốt các cấp cần tập trung làm tốt công tác chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, coi nhẹ hoặc làm lướt công tác này.
            Tại hội nghị, lãnh đạo Sở Tư pháp giới thiệu những vấn đề cần tập trung lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường giới thiệu những nội dung cần tập trung lấy ý kiến vào dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
            Trong phiên thảo luận tại tổ, các đại biểu đã tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các đại biểu cơ bản thống nhất Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã cụ thể, rõ ràng. Đại biểu cho rằng lời nói đầu cần biên tập lại ngắn gọn hơn, nêu được tinh thần của bản hiến pháp. Đồng thời các đại biểu cũng tham gia chỉnh sửa một số câu từ ở một số chương, điều trong dự thảo. Ý kiến các đại biểu cũng đóng góp vào điều 4 sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực của Nhà nước, chính quyền địa phương, của quân đội. Tham gia vào điều 120 của dự thảo, các đại biểu cũng đồng tình quan điểm bổ sung nội dung này là phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên cần quy định rõ hơn chức năng quyền hạn của hội đồng hiến pháp. Khi hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, cần được trưng cầu dân ý, trước khi ban hành.
            Về Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, các đại biểu nhận định bố cục các chương, mục khá rõ ràng theo từng mảng, dễ tra cứu. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến cho rằng nội dung dự thảo còn dàn trải, chưa giải quyết được triệt để những vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong quản lý và sử dụng đất hiện nay. Các đại biểu cũng tham gia vào nội dung tài chính về đất đai và giá đất, hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, giám sát, thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai,...
            Cuối buổi chiều, các đại biểu họp tại hội trường, nghe báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Với tinh thần trách nhiệm cao, sau một ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, đã có 68 ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và 74 ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai. HĐND tỉnh sẽ tập hợp, tổng hợp trình ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong thời gian tới.
                                                                 THANH AN

Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về thăm và làm việc tại Thái Bình

            Cập nhật: Thứ bảy, 09/3/2013         
            Sáng ngày 09/3/2013, Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết về thăm và làm việc tại Thái Bình. Tiếp và làm việc với Nguyên Chủ tịch nước có đồng chí Trần Cẩm Tú - Ủy viên TƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh cùng các đồng chí trong Ban thường vụ Tỉnh ủy.
            Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng đoàn đã thăm và dâng hương tại di tích lịch sử văn hóa - khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xã Nam Cường, huyện Tiền Hải. Nguyên Chủ tịch nước đánh giá cao những thành tựu nổi bật của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình trong những năm qua. Đồng thời mong rằng, Đảng bộ và nhân dân Thái Bình tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, chung sức, chung lòng đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát huy tốt các tiềm năng, lợi thế sẵn có của địa phương, đặc biệt là thế mạnh về biển, hướng ra biển để phát triển kinh tế biển. Chỉ đạo thực hiện tốt chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới, phấn đấu xây dựng Thái Bình trở thành tỉnh gương mẫu về mọi mặt như Bác Hồ hằng mong muốn.

            Cũng trong sáng 09/3/2013, Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cùng đoàn đến thắp hương tưởng niệm tại khu lưu niệm Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ, xã Tây Sơn, huyện Tiền Hải. Tại đây, Nguyên Chủ tịch nước đánh giá cao ý thức giữ gìn, bảo vệ và tôn tạo khu lưu niệm của nhân dân địa phương. Đồng thời lưu ý Đảng bộ và nhân dân Thái Bình cần tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và cố gắng hơn nữa trong việc gìn giữ các di tích lịch sử văn hóa có tính chất đặc biệt này. Nguyên Chủ tịch nước và các đại biểu đã trồng cây lưu niệm tại khu lưu niệm Doanh Điền sứ Nguyễn Công Trứ.
HĐND và UBND tỉnh tổ chức hội nghị góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi

           Cập nhật, Thứ năm, 07/3/2013           
           Sáng ngày 07/03/2013, HĐND và UBND tỉnh tổ chức hội nghị góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Đồng chí Trần Cẩm Tú- Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy đến dự. Đồng chí Nguyễn Hồng Diên- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, đồng chí Phạm Văn Sinh- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đồng chủ trì hội nghị.
            Cùng dự hội nghị có các đồng chí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND, UBND tỉnh, đại biểu HĐND tỉnh
            Đồng chí Nguyễn Hồng Diên- Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh đọc lời khai mạc, nêu rõ tầm quan trọng của các bản hiến pháp đối với lịch sử cách mạng của dân tộc. Hiến pháp năm 1992 thể chế hóa cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tạo cơ sở chính trị, pháp lý cho công cuộc đổi mới, khẳng định bước phát triển về nhận thức, đổi mới tư duy của Đảng, Nhà nước ta.
            Qua hơn 20 năm thực hiện hiến pháp, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, để phù hợp với tình hình mới của đất nước, thì việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là một yêu cầu tất yếu khách quan. Dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này có 11 chương với 124 điều, trong đó bổ sung mới 11 điều, sửa đổi 102 điều, giữ nguyên 12 điều, giảm 1 chương và 23 điều so với hiến pháp năm 1992. Cùng thời gian này, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ chỉ đạo tổ chức lấy ý kiến vào Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Trong dự thảo Luật Đất đai sửa đổi lần này có 14 chương với 206 điều, tăng 7 chương và 60 điều so với Luật Đất đai năm 2003.
            Đồng chí yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể, lãnh đạo chủ chốt các cấp cần tập trung làm tốt công tác chỉ đạo, kiểm tra việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, kiên quyết khắc phục tư tưởng chủ quan, coi nhẹ hoặc làm lướt công tác này.
            Tại hội nghị, lãnh đạo Sở Tư pháp giới thiệu những vấn đề cần tập trung lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường giới thiệu những nội dung cần tập trung lấy ý kiến vào dự thảo Luật Đất đai sửa đổi.
            Trong phiên thảo luận tại tổ, các đại biểu đã tham gia ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Các đại biểu cơ bản thống nhất Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã cụ thể, rõ ràng. Đại biểu cho rằng lời nói đầu cần biên tập lại ngắn gọn hơn, nêu được tinh thần của bản hiến pháp. Đồng thời các đại biểu cũng tham gia chỉnh sửa một số câu từ ở một số chương, điều trong dự thảo. Ý kiến các đại biểu cũng đóng góp vào điều 4 sự lãnh đạo của Đảng, quyền lực của Nhà nước, chính quyền địa phương, của quân đội. Tham gia vào điều 120 của dự thảo, các đại biểu cũng đồng tình quan điểm bổ sung nội dung này là phù hợp với thực tiễn, tuy nhiên cần quy định rõ hơn chức năng quyền hạn của hội đồng hiến pháp. Khi hoàn thiện Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, cần được trưng cầu dân ý, trước khi ban hành.
            Về Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi, các đại biểu nhận định bố cục các chương, mục khá rõ ràng theo từng mảng, dễ tra cứu. Tuy nhiên còn nhiều ý kiến cho rằng nội dung dự thảo còn dàn trải, chưa giải quyết được triệt để những vấn đề còn vướng mắc, bất cập trong quản lý và sử dụng đất hiện nay. Các đại biểu cũng tham gia vào nội dung tài chính về đất đai và giá đất, hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, giám sát, thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai,...
            Cuối buổi chiều, các đại biểu họp tại hội trường, nghe báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi. Với tinh thần trách nhiệm cao, sau một ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, đã có 68 ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và 74 ý kiến góp ý vào Dự thảo sửa đổi Luật Đất đai. HĐND tỉnh sẽ tập hợp, tổng hợp trình ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp trong thời gian tới.
                                                                 THANH AN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét