Ngược quốc lộ 13, chúng tôi hăm hở về thăm di tích Trung ương Cục miền Nam (TWCMN) - nơi từng được gọi là “Thủ đô kháng chiến” của miền Nam. Nơi đây những kỳ tích vang bóng một thời trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cách thị xã Tây Ninh, xuôi quốc lộ 22B, chừng khoảng 60 km là đến Rùm Đuôn, nơi từng đóng cơ quan đầu não kháng chiến
TWCMN. Nơi đây cách biên giới Campuchia chừng 1km theo đường chim bay,
cách cửa khẩu Xamát chừng khoảng 4km. Vùng biên Tân Lập chào đón khách
phương xa bằng không khí đặc thù của một vùng rừng nhiệt đới đặc trưng
và cái nắng khô hanh đến gai người.
Phải mất gần một giờ đồng hồ, chúng tôi mới đến được “Thủ đô kháng chiến” miền Nam khi mặt trời đã xế bóng. Trước mặt chúng tôi, là một vùng xanh ngát, um tùm những cây cổ thụ và dưới tán rừng lá chi chít những dây leo. Thấp thoáng dưới những tán cây đại thụ là nhà làm việc của các vị lãnh đạo cao cấp của TWCMN đã đi vào huyền thoại như: Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt...
Các hướng
dẫn viên kể những câu chuyện về một thời chiến đấu, một thời đạn bom
của những con người đã đi vào huyền thoại Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn
Linh, Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt …
Các vật
dụng trong nhà từ chiếc chõng tre, tủ, kệ bằng ván đến các súc gỗ làm
bàn, ghế vẫn được giữ nguyên như trước đây. Mỗi nhà đều có hầm kiên cố
được..
Căn nhà
đồng chí đại tướng Nguyễn Chí Thanh-Bí thư TW Cục thờI kỳ 1964
-1967 từng ở, nay là nơi đặt di ảnh và bàn thờ đồng chí.
Nhà đồng chí Võ Văn Kiệt từng ở
Trước khi đi vào rừng, đoàn chúng tôi được vào tham quan tại Nhà trưng bày di tích lịch sử, với những hình ảnh tư liệu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, tận mắt chứng kiến những dụng cụ sinh hoạt và phương tiện vũ
khí chiến đấu thô sơ. Trong số này có nhiều hiện vật lần đầu tiên được
công bố như: Bàn làm việc có 3 ngăn, 3 đáy của đồng chí Lê Duẩn, mô hình
căn nhà của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, súng tự tạo mang tên “Ngựa
trời” và nhiều hình ảnh, hiện vật quý giá. Tận mắt nhìn thấy các hiện
vật mới hiểu hết nỗi khó khăn gian khổ mà anh dũng của cán bộ lãnh đạo
cách mạng miền Nam.
Di tích được phục chế tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam - tỉnh Tây Ninh
Ảnh: DƯƠNG THANH XUÂN
Rời nhà truyền thống, con đường nhỏ đưa chúng tôi
đến những căn nhà nhỏ bé đơn sơ ẩn mình sau tán lá rừng, có nhà hội họp
tập thể, nhà làm việc của các cán bộ cao cấp, nhà ở của chiến sĩ và các
ban, ngành. Những ngôi nhà này được dựng bằng tre, gỗ, mái lợp lá trung
quân, phù hợp hoàn cảnh chiến tranh lúc bấy giờ. Các vật dụng trong nhà
từ chiếc chõng tre, tủ, kệ bằng ván đến các súc gỗ làm bàn, ghế vẫn được
giữ nguyên như trước đây. Mỗi nhà đều có hầm kiên cố được nối với nhau
bởi một hệ thống giao thông hào liên hoàn. Chính tại nơi đây, các vị
lãnh đạo đã từng ở và làm việc trong những năm tháng kháng chiến.
Mặc dù nhiều lần bị địch đánh phá ác liệt nhưng căn cứ “R” vẫn được
bảo vệ vững chắc và trở thành biểu tượng của tinh thần quả cảm, trí
thông minh, tài thao lược của quân và dân Việt Nam.
Theo anh Trương Duy Tân, hướng dẫn viên khu căn cứ
cho biết: “Những căn nhà của các đồng chí lãnh đạo được phục chế nguyên
trạng trên nền đất cũ và nổi trên mặt đất. Khi phục chế cột của những
căn nhà được làm bằng bê tông giả gỗ tinh xảo, giống y chang hồi trước.
Điểm độc đáo của những căn nhà ở đây là không có kèo, không lót đòn tay
và đặc biệt nhất là mái lá trung quân. Đó là một loại lá giống lá xoài,
nhưng dài hơn một tý. Lá được gấp lại, xỏ liên kết với nhau bằng lạt
tre, đánh thành tấm lợp. Lá trung quân dai, bền, khó bị mục bởi mưa nắng
và không bắt lửa. Nếu gặp lửa lá không cháy. Vì thế bom Mỹ giỏi lắm chỉ
làm sập nhà chứ không làm cháy mái. Lá trung quân là lá một loại dây
leo bám vào các cổ thụ. Bên cạnh mỗi căn nhà là một hầm trú ẩn nửa
chìm, nửa nổi”.
Cũng theo lời của anh Tân thì ngày xưa căn cứ được
hình thành ba vành đai bảo vệ. Lớp thứ nhất gồm những thân cây vót nhọn
cắm chi chít ngoài trảng trống để chống trực thăng đổ bộ. Lớp thứ hai
bịt bùng những thân cây cưa đổ nhưng vẫn xanh tươi. Lớp trong cùng có
hai lớp rào cây bảo vệ xen kẽ. Từ trên không nhìn xuống toàn bộ khu rừng
vẫn xanh tươi nên máy bay dọ thám của địch… không phát hiện được. Năm
1962, đơn vị cảnh vệ đầu tiên được thành lập tại đây. Nhiệm vụ của đơn
vị là kiểm soát bảo vệ căn cứ, phòng ngự từ xa. Năm 1965, ATK (an toàn
khu) được thành lập.
Chúng tôi ghé thăm bếp Hoàng Cầm, bếp đặc biệt là
khi nấu áp suất không khí sẽ đẩy vào, khói sẽ theo các đường dẫn khí sẽ
vào bên trong hầm chứa khói. Và từ những hầm chứa khói đó, sẽ có những
ống dẫn khói nữa dẫn qua 2-3 hầm chứa, rồi sau đó, sẽ có nhiều ống dẫn
khói tiếp tục lan tỏa lên những bụi, thân cây lớn. Khi đó, các anh nuôi
sẽ lấy lá tủ lên nên khói sẽ bay là là dưới mặt đất nên địch rất khó
phát hiện…
Điểm đặc biệt trong chuyến về “Thủ đô kháng chiến”
của miền Nam là chúng tôi được hướng dẫn đến thăm Ban an ninh TWCMN.
Tại đây, mỗi Ban An ninh của 31 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị đến Cà Mau
đều có đài tưởng niệm riêng. Chúng tôi đã cùng thắp nén hương ở phần di
tích Công an Phú Yên.
Hằng năm, vùng căn cứ địa cách mạng đón rất nhiều
du khách. Vì đó không những là nhu cầu của đông đảo cựu chiến binh, các
chiến sĩ cách mạng mà còn là mong muốn của nhiều thế hệ trẻ hôm nay để
được về nguồn, tưởng nhớ và biết ơn những người đi trước.
St từ Internet
Tây Ninh trước kia vốn là một vùng đất thuộc vùng Thủy Chân Lạp, có tên
là Romdum Ray, tức Chuồng Voi vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú
dữ như cọp, voi, beo, rắn,... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất
thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang thì vùng đất
này mới trở nên trù phú.
Vùng đất cũ Tây Ninh – Vàm Cỏ một
thời là trung tâm nông nghiệp phát triển do sự di chuyển dân cư và
chuyển dịch kinh tế đã nhanh chóng trở nên hoang vắng kéo dài vài trăm
năm. Phải đến thế kỷ VI - VII mới bắt đầu có sự hưng khởi trở lại do có
sự di chuyển dân cư từ châu thổ sông Cửu Long lên các vùng đất cao để
tránh thiên tai, địch họa và để vượt qua cuộc khủng hỏang kinh tế -
chính trị của Phù Nam. Những cộng đồng cư dân có gốc bản địa xa xưa lại
trở về “đất cũ” với hành trang truyền thống đã có nội dung mới tiến bộ
hơn văn minh hơn. Trong khoảng thế kỷ thứ VII -VIII trên đất cũ Tây Ninh,
họ đã dựng lên hàng trăm ngôi tháp bằng gạch mà đến nay chỉ còn lại hai
địa điểm lưu tồn không toàn vẹn cấu trúc tháp thờ xưa là Chót Mạt.
Ngoài việc xây tháp, cư dân Tây Ninh thời đó còn tạc nhiều tượng thần, vật thiêng bằng đá hoặc đúc bằng đồng để thờ.
Thời ấy “nơi nơi có đền tháp, chốn chốn có thần linh”, tôn giáo Bà la môn phát triển "thịnh vượng". Tầng lớp tăng lữ, tu sĩ Ba la môn giữ vai trò rường cột trong xã hội. Với lao động theo niềm tin vào thần linh cao cả, dân chúng nô lệ lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng nhất cho sự phát triển về kinh tế - văn hóa của quốc gia Thủy Chân Lạp tồn tại trong khoảng thế kỷ VII -VIII sau công nguyên.
Thời ấy “nơi nơi có đền tháp, chốn chốn có thần linh”, tôn giáo Bà la môn phát triển "thịnh vượng". Tầng lớp tăng lữ, tu sĩ Ba la môn giữ vai trò rường cột trong xã hội. Với lao động theo niềm tin vào thần linh cao cả, dân chúng nô lệ lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng nhất cho sự phát triển về kinh tế - văn hóa của quốc gia Thủy Chân Lạp tồn tại trong khoảng thế kỷ VII -VIII sau công nguyên.
Hoàng hôn trên núi Bà Đen Tây Ninh
Từ thế kỷ thứ IX về sau, với sự hình thành vương
quốc Ăngco - Campuchia trên vùng trung lưu và biển hồ sông Mekong, vùng
Nam Bộ biến thành vùng tranh giành ảnh hưởng của các thế lực chính trị
các vương quốc lớn bấy giờ (Ăngco - Chămpa - Java ) cộng đồng cư dân nơi
vùng đất một thời phát triển phồn vinh về kinh tế, đặc sắc và rực rỡ về
văn hóa phải lưu tán đến vùng đất khác trong nội địa hoặc phải rời đến
những hải đảo xa xôi.
Địa bàn Tây Ninh cũng là "vùng đệm" giữa các quốc gia cổ đại nên cư dân cũng phải lưu tán đến những vùng đất khác. Những di tích của những cư dân tại chỗ vào thời này trên đất Tây Ninh cho đến nay rất hiếm thấy. Một đứt đoạn thứ hai (đứt đoạn thứ nhất: sau thời đại đồ đá, dân cư Tây Ninh - Vàm Cỏ tràn xuống đồng bằng sông Cửu Long) của văn hóa lịch sử diễn ra ở đây và kéo dài nhiều thế kỷ cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân cư mới trên đất Tây Ninh ngày nay.
Địa bàn Tây Ninh cũng là "vùng đệm" giữa các quốc gia cổ đại nên cư dân cũng phải lưu tán đến những vùng đất khác. Những di tích của những cư dân tại chỗ vào thời này trên đất Tây Ninh cho đến nay rất hiếm thấy. Một đứt đoạn thứ hai (đứt đoạn thứ nhất: sau thời đại đồ đá, dân cư Tây Ninh - Vàm Cỏ tràn xuống đồng bằng sông Cửu Long) của văn hóa lịch sử diễn ra ở đây và kéo dài nhiều thế kỷ cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân cư mới trên đất Tây Ninh ngày nay.
Đến thế kỷ thứ XVII, người dân ở các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi và Bình
Thuận bị thất mùa, nạn đói đe dọa. Họ được khuyến khích di cư vào các
tỉnh miền Nam. Những người Việt đến định cư khai khẩn đất đai từ Hóc Môn
lên đếnTrảng Bàng rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen. Họ đến mang theo
ngôn ngữ, phong tục, tập quán và nền văn hóa khác với người Cambodia,
nên khi người Việt đến đâu thì người Campuchia tự động lui về hướng tây
tức vào sâu sang biên giới nước họ.
Thời gian này, Tây Ninh được triều đình Huế sát nhập vào tỉnh Gia Định
(tức Phiên An trấn). Khi Chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đuổi bỏ chạy
vào Nam, ông đã chạy lên Tây Ninh ẩn náu, tìm đường sang Campuchia, rồi
bắt liên lạc cầu viện quân Xiêm trợ giúp đánh lại nhà Tây Sơn. Nhưng
cuối cùng nhà Tây Sơn đã đánh bại quân Xiêm. Năm 1789 Chúa Nguyễn nhờ
đến viện binh là quân Pháp sang giúp. Đến năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh
dẹp xong nhà Tây Sơn và lên ngôi lấy vương hiệu là Gia Long, quốc hiệu
là Đại Nam quốc. Đến thời kỳ vua Thiệu Trị và Tự Đức quân lính ở vùng
Thủy Chân Lạp sang đánh phá muốn chiếm lại đất đai vì Tây Ninh lúc bấy
giờ thuộc vùng lãnh thổ tiếp giáp giữa hai nước. Nhưng cuối cùng quân
Campuchia thua cuộc.
Theo các nguồn sử liệu phương Tây thì từ đầu thế kỷ
XVII, người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Gia Định. Họ
cùng với cư dân địa phương - người Khơ me khai phá các khu vực chợ Quán,
Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp… kéo dài đến Hóc Môn và dọc theo trục lộ đi
về phía Tây Ninh. Thành phần chủ yếu là nông dân và thợ
thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng chủ yếu là nông dân và
thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng cực, điêu đứng vì
tai họa chiến tranh, bị giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột tàn bạo
không thể sống nổi, buộc phải rời bỏ làng xóm, quê hương đi một mình
hoặc đem theo cả vợ con cùng bè bạn, xóm giềng vào vùng đất mới xa xôi
tìm con đường sống. Chính con số đông đảo những người nông dân nghèo khổ
phải xiêu tán đó là nguồn cung cấp cho làn sóng di cư vào đất Ðồng Nai -
Gia Định, nơi họ nghe nói có đất đai rộng lớn phì nhiêu chưa được khai
thác. Ngoài ra còn những người trốn binh dịch; tù nhân bị lưu đày; lính
đảo, giải ngũ; thầy lang; thầy đồ nghèo… kể cả một số người vốn đã giàu
có nhưng vẫn muốn tìm nơi đất mới để mở rộng làm ăn.
Cũng vào thế kỷ XVII có một số lớn người Hoa từ
Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) đến vùng Ðồng Nai - Gia Định xin tị
nạn và làm ăn sinh sống. Năm 1679 có khoảng 3.000 người, năm 1680 có 200
người do Mạc Cửu đưa đến vùng Hà Tiên.
Như vậy, cho đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng
với người Hoa, người Khơ me, lưu dân người Việt đã đến định cư khai phá
vùng Sài Gòn - Bến Nghé. Lúc này dân số tại đây đã lên tới 40.000 hộ với
khoảng 200.000 người và chúa Nguyễn đã cho lập ra ở đây hai huyện
(Phước Long và Tân Bình) với 2 dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn) đều thuộc
phủ Gia Định để tiến hành quản lý hành chính. Đất Tây Ninh lúc ấy là đạo Quang Phong thuộc phủ Gia Định với dân số ước khoảng 1.000 người.
Từ đây, công cuộc khai phá vùng đất Tây Ninh nói riêng và Nam Bộ nói chung bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn.
Trên cơ sơ hoạt động nông nghiệp phát triển nghề
làm gốm được triển khai mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu bảo quản, cất trữ
lương thực, nấu, đựng đồ ăn, thức uống.Trong các di tích của cư dân nơi
đây, có nhiều loại đồ gốm được chế tác bằng bàn xoay từ đất sét có pha
thêm cát mịn như: vò, nồi, bình, bát, mâm bồng, đĩa quả, bếp có 3 chân
kiềng…
Theo địa sử học vào thời bấy giờ, vùng đầm lầy
Duyên Hải bao gồm cả vùng châu thổ sông Cửu Long ngày nay. Vùng đầm lầy
cùng với sông nước sông Vàm Cỏ Đông là địa bàn thuận tiện cho việc phát
triển nghề đánh bắt thủy sản. Nhiều di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn
thể, giáp xác được đánh bắt làm thực phẩm thời ấy còn bảo tồn khá lớn
trong di tích.
Tây Ninh vẫn thuộc phần lãnh thổ của tỉnh Gia Định. Song, do tỉnh Gia
Định thời bấy giờ rất rộng lớn, bao gồm cả vùng đất Tây Ninh, Tân Bình,
Chợ Lớn, Tân An và Gò Công nên đến thời kì Pháp thuộc, vùng Trảng Bàng
trở thành ranh giới phân chia hai tỉnh Tân An và Tây Ninh. Tỉnh Tây Ninh
gồm hai vùng đất chính là Tây Ninh và Gò Dầu. Điểm đặc biệt của vùng
đất Tây Ninh là có vô số cây bàng lác, là loại cây chuyên dùng làm bao
xách hay làm đệm. Còn Gò Dầu là vùng đất cao có vô số cây dầu mà người
dân dùng để đốt làm đèn.
Ngày nay, Tây Ninh đã trở thành một tỉnh có vị trí quan trọng vì nằm
ngay trên trục giao thông nối liền hai nước Việt Nam và Camphuchia,
thuận lợi cho các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa và phát
triển.
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Trong giai đoạn 2006 - 2010, các ngành thương mại,
dịch vụ tăng nhanh, chiếm tỷ trọng trên 30% trong GDP. Giá trị sản xuất
các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 21,6%, góp phần đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Sở Công thương, trong giai đoạn 2006 – 2010, hoạt động thương mại phát triển
nhanh, tổng mức luân chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng bình
quân là 29,41%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
VIII (15%). Tổng kim ngạch nhập khẩu xuất khẩu giai đoạn này đạt hơn
3,139 tỷ USD, tăng bình quân hằng năm 22,16%, đạt 116,26% so kế hoạch
(NQ: 2,7 – 2,8 tỷ USD). Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 1,9 tỷ USD,
tăng bình quân hằng năm 18,45% (NQ: 18,6%).
Tiềm năng DU LỊCH của tỉnh chưa được khai thác, đầu tư đúng mức.
Trong ảnh: Di tích tháp Chót Mạt (xã Tân Phong, huyện Tân Biên)
Trong ảnh: Di tích tháp Chót Mạt (xã Tân Phong, huyện Tân Biên)
Một số ngành dịch vụ có tác động mạnh đến KT-XH của tỉnh như ngành DU LỊCH có sự chuyển biến trong xúc tiến, quảng bá, nâng cao chất lượng và thu hút du khách. Đến năm 2010, khách tham quan DU LỊCH núi Bà Đen đạt khoảng 2 triệu lượt người, Khu kinh tế cửa khẩu thu hút
khoảng 2,2 triệu lượt khách tham quan, mua sắm. Dịch vụ vận tải được
nâng lên, vận tải công cộng bằng xe buýt, taxi trong nội thị được hình
thành, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, đô thị hoá
và phục vụ nhu cầu của nhân dân. Mạng lưới ngân hàng được mở rộng đến
các huyện thị; số lượng, chất lượng các sản phẩm dịch vụ tiện ích tăng
lên. Nguồn vốn huy động tăng bình quân hằng năm 38%, dư nợ tăng bình
quân hằng năm 25%/năm...
Dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng mạng lưới thương mại, dịch vụ vẫn còn một số mặt hạn chế như hạ tầng thương mại chậm phát triển và phát triển chưa đều so với nhu cầu phát triển
KT-XH của tỉnh. Hệ thống phân phối chưa thiết lập được kênh lưu thông
hàng hoá thông suốt ổn định giữa người sản xuất, người buôn bán và người
tiêu dùng. Lợi thế biên giới, cửa khẩu chưa được khai thác đúng mức,
đầu tư hạ tầng cửa khẩu còn thấp. Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là xuất thô
hoặc sơ chế. Thị trường tiêu thụ bấp bênh, chưa ổn định. Hệ thống các
chợ trên địa bàn tỉnh còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Tiềm năng DU LỊCH chưa được khai thác, đầu tư đúng mức, cơ sở vật chất phục vụ DU LỊCH còn yếu kém; các loại hình dịch vụ, sản phẩm phục vụ DU LỊCH chưa phong phú. Việc hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến
thương mại còn nhiều hạn chế; cung cấp thông tin cho doanh nghiệp chưa
kịp thời, chưa phong phú.
Tây Ninh chỉ có các
doanh nghiệp hoạt động thương mại dịch vụ vừa và nhỏ, chưa có doanh
nghiệp lớn. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường
còn yếu, còn lúng túng trong định hướng phát triển,
chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh. Các HTX thương mại dịch vụ đã giải thể hoặc chỉ hoạt
động cầm chừng, không phát huy được tác dụng trên thị trường.
Trước thực trạng đó, Sở Công thương đã dự thảo Chương trình hành động về phát triển
thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn
đến năm 2020 để UBND tỉnh thảo luận thông qua, trình Tỉnh uỷ xem xét
ban hành nhằm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt và triển
khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX. Mục tiêu đặt
ra là phát triển nhanh và bền vững các ngành thương mại, dịch vụ, tạo sự chuyển biến nhanh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đầu tư phát triển
kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ. Xây dựng môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững
ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Hệ thống phân phối chưa thiết lập được
kênh lưu thông hàng hoá thông suốt ổn định giữa người sản xuất, người
buôn bán và người tiêu dùng
Dự thảo Chương trình hành động nhấn
mạnh, trong giai đoạn 2011 – 2015, cần tập trung phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân khoảng 14,5 – 15%, trong đó khu vực dịch vụ khoảng
14,5- 15%. Cơ cấu kinh tế vào năm 2015 (theo giá hiện hành) dự kiến khu
vực dịch vụ chiếm khoảng 36,5 – 37%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ
tăng bình quân hằng năm từ 14% trở lên. Phấn đấu tổng mức hàng hoá bán
lẻ và doanh thu dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 25%/ năm. Kim
ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 20%, trong đó xuất khẩu qua biên
giới đất liền chiếm tỷ lệ 6%. Về DU LỊCH , lượng khách trong nước và quốc tế tăng 10%/ năm, có 194 DU LỊCH , nhà nghỉ với 2.579 phòng.
Phát triển vận tải hành
khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh với 10 tuyến; phương
tiện vận tải đường bộ trên 3.557 chiếc ô tô khách và phương tiện vận tải
hàng hoá có trên 4.028 chiếc; phương tiện vận tải đường sông có từ
1.320 chiếc tàu vận tải; các bến xe được nâng cấp mở rộng với tổng diện
tích từ 46,1ha trở lên.
Tăng trưởng nguồn vốn huy động của các
ngân hàng thương mại bình quân hằng năm trên 16%, tăng trưởng tín dụng
bình quân hằng năm trên 17%. Tốc độ tăng sản lượng bưu chính đạt 8-12%/
năm, xây dựng và phát triển mạng viễn thông hiện đại,
đồng bộ và rộng khắp. Cung cấp các dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, đạt
tiêu chuẩn quốc tế, mật độ thuê bao internet quy đổi đạt 8-12 thuê bao/
100 dân với tỷ lệ sử dụng internet đạt 25 – 35% dân số. Về y tế có 2.225
giường bệnh, 735 cửa hàng, quầy bán thuốc chữa bệnh.
Giai đoạn 2016 – 2020 phấn đấu đạt tốc
độ tăng trưởng bình quân khoảng 15,5 – 16%, trong đó khu vực dịch vụ
khoảng 15-15,5%. Cơ cấu kinh tế vào năm 2020 dự kiến khu vực dịch vụ
chiếm khoảng 38 – 39,5%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm
23-25%. Các bến xe được nâng cấp mở rộng với tổng diện tích từ 69,5ha.
Về bưu chính, viễn thông, 100% các dịch vụ hành chính công được cung cấp trên mạng...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét