Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

quạt công nghiệp bán ở tại tây ninh , mua quat cong nghiep tay ninh báo giá rẻ


Trang sử vẻ vang Tây Ninh
   Công cuộc khẩn hoang và khai thác vùng đất Tây Ninh của người nông dân Việt Nam thuộc các thành phần dân tộc khác nhau đã diễn ra liên tục suốt 300 năm,  trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau trong điều kiện chính trị, xã hội khác nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử, bộ máy chính quyền đều có những biện pháp để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang. Dĩ nhiên, các chúa Nguyễn, các vua quan triều Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp thi hành 1 số biện pháp đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang và khai thác công nghiệp ở vùng đất phương Nam này đều nhằm phục vụ cho những mưu đồ chính trị và kinh tế của họ.
Tuy nhiên trong suốt lịch sử khẩn hoang và khai thác nông nghiệp tại Tây Ninh từ đầu tới cuối thời thuộc Pháp vẫn chưa có 1 cách thức hay biện pháp nào thay thế được sức lao động của người nông dân. Ngay cả những đồn điền cao su, mía bạt ngàn của người Pháp ở Tây Ninh, cảnh tượng làm nông nghiệp vẫn không có gì thay đổi. Trực tiếp dầm mưa dãi nắng làm đất, trồng tỉa, chăm bón, thu hoạch vẫn là người nông dân cần cù và nhẫn nại. Kể cả cơ sở hạ tầng xây dựng dưới thời nhà Nguyễn và thời thuộc Pháp như đường xá, cầu cống, bến sông, xưởng máy, chợ búa,… phục vụ cho các hoạt động kinh tế cũng do người dân Tây Ninh trực tiếp xây dựng.
Song song với sự gia tăng diện tích canh tác, khối lượng nông sản ở Tây Ninh cũng không ngừng gia tăng, Tuy không phải là độc canh cây lúa nhưng sản lượng lúa ở Tây Ninh năm 1944 đã lên đến 37.600 tấn, bình quân đầu người đạt 256 kg. Thế nhưng trong thực tế người dân Tây Ninh mỗi ngày 1 lâm vào cảnh túng đói, đặc biệt là đời sống của công nhân cao su. Có thể nói bao nhiêu nguồn lợi to lớn từ cây cao su vào túi bọn thực dân, địa chủ là bấy nhiêu mồ hôi, xương máu của anh chị em công nhân đồn điền đã đổ ra. Cuộc đấu tranh tự phát của công nhân cao su Phờ răng sơ ni (Franchini) ngày 21/6/1939, của công nhân cao su Bến Củi tháng 11/1939 chống bọn chủ đánh chết người đàn áp bóc lột công nhân, đòi tăng lương đều không đi đến thắng lợi trọn vẹn.
Nguyên nhân cơ bản của tình hình trên là do chế độ phân phối xã hội bất công, bất hợp lý khởi đầu từ thời chúa Nguyễn và được đẩy mạnh dưới thời Pháp thuộc. Ruộng đất thay vì nuôi sống người nông dân thì lại trở thành phương tiện để cho 1 thiểu số bóc lột họ làm giàu. Do đó vị trí quan trọng (biên giới dài với Cămpuchia, có rừng rộng, núi cao, đường sông đường bộ thuận tiện, là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đường liên lạc ra vào thuận tiện) nên trong quá trình hình thành và phát triển của tỉnh cũng là đối đầu quyết liệt chống ngoại xâm. Thời kỳ đầu thành lập tỉnh, nhiều bậc đại thần đến Tây Ninh cùng dân chúng địa phương, kiên quyết bất khuất chống giặc bên kia biên giới xâm nhập, bảo vệ mảnh đất tiền tiên của tổ quốc. Khi giặc Pháp đặt gót giày xâm lược đến đất Tây Ninh, không chấp nhận hiệp ước đầu hàng của triều đình Huế, dân chúng địa phương đã cùng Khâm Tấn Tường, Trương Quyền, PuKămpô, Lãnh Binh Tòng, Lãnh Binh Két, … liên tục tổ chức kháng chiến chống Pháp, đánh nhiều trận, diệt nhiều sĩ quan, binh lính Pháp. Những “đồng cỏ đỏ” ở Trảng Bàng, ở Thị xã Tây Ninh mãi mãi ghi lại sự tích chiến thắng quân xâm lược của nghĩa quân làm cho máu giặc loang đỏ cánh đồng.
Cuộc đối đầu giữa độc lập dân tộc và phản dân tộc, giữa cách mạng và phản cách mạng ngày 1 phát triển và quyết liệt thêm theo đà tăng trưởng của công cuộc khẩn hoang và các hoạt động kinh tế tại đây. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành 1 cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, giải phóng người nông dân khỏi ách áp bức, bóc lột của địa chủ, xây dựng 1 chế độ xã hội mới, thiết lập quan hệ sản xuất mới, trong đó có người cày có ruộng để cày, người trực tiếp sản xuất được làm chủ sản phẩm của mình làm ra.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ khi ra đời (3/2/1930) với 2 nhiệm vụ chiến lược: chống đế quốc và phong kiến chính là nhằm giải quyết mâu thuẩn xã hội cấp bách đó. Đường lối cách mạng đúng đắn ấy được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, theo Đảng nhất tề đứng dậy, làm nên cuộc cách mạng tháng Tám thắng lợi, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt thời kỳ nô lệ tối tăm ngót 1 thế kỷ trên đất nước ta, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới. Cùng với thắng lợi chung của cả nước, quân dân Tây Ninh dưới sự lãnh đạo của những người Cộng Sản đã giành được chính quyền vào đêm 25/8/1945.
Nhưng sau đó không bao lâu thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh tái chiếm Việt Nam. Ngày 8/11/1945 tại Suối Sâu (huyện Trảng Bàng) đã vang lên những tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên quê hương Tây Ninh.
Chín năm kháng chiến chống Pháp xâm lược, chiến trường Tây Ninh là nơi khó khăn nhất của “Miền Đông gian lao và anh dũng”. Vị trí và địa thế quan trọng của Tây Ninh đã thu hút mọi kẻ thù tập trung giành giật chiến trường này. Mọi chính sách thâm độc nhất “dùng Cao Đài đánh Việt minh” đều được giặc Pháp và các tổ chức đảng phái, tôn giáo phản động triệt để áp dụng chống phá cách mạng.
Đảng bộ Tây Ninh đã biết dựa vào quần chúng, củng cố tổ chức Đảng, mặt trận, chính quyền, lực lượng vũ trang, giữ căn cứ giữ đất, giữ người. Quân dân Tây Ninh đã đánh hàng ngàn trận với giặc Pháp và liên tục chống trả bọn phản động Cao Đài, diệt giặc lấy súng giặc và tự sản xuất vũ khí trang bị cho mình, làm tròn trách nhiệm tại địa phương và bảo vệ tốt căn cứ địa cách mạng, làm chỗ đứng cho các cấp lãnh đạo của liên tỉnh, của phân liên khu miền Đông và Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo toàn miền giành thắng lợi, chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai mươi mốt năm kháng chiến chống Mỹ là trang sử hào hùng và ác liệt nhất của quân dân Tây Ninh.
Chống trả với kẻ thù sừng sỏ nhất, quân dân Tây Ninh đã vượt qua thời kỳ đen tối, hy sinh trong đấu tranh chính trị, tạo thế, tạo lực cho lực lượng cách mạng đứng lên “đồng khởi” giành chiến thắng Tua Hai. Từ đó kết hợp võ trang với chính trị cùng toàn miền Nam lần lượt bẻ gẫy các chiến lược tàn bạo của tên sen đầm quốc tế giàu tiềm lực kinh tế và quốc phòng, làm cho “nhà trắng” luôn phải đau đầu, bao lần thay tướng đổi quân, cuối cùng chuốc lấy thất bại, xuống thang chiến tranh ngồi vào bàn hội nghị và chịu rút hết quân Mỹ về nước. Tuy nhiên, chúng vẫn còn nuôi ảo vọng chuyển thế cờ, dùng ngụy quân, ngụy quyền có Mỹ viện trợ tối đa chống lại lực lượng cách mạng. Bọn chúng không ngờ lực lượng cách mạng lớn nhanh như thần phù đổng, đè bẹp ngụy quân trong vòng 55 ngày đêm chiến dịch, buộc Tổng Thống ngụy phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Quân dân Tây Ninh đã xứng đáng với lòng tin của lãnh đạo cấp trên, quật ngã kẻ thù trên chiến trường trọng điểm, làm tròn trách nhiệm bảo vệ căn cứ địa đầu não và tự lực giải phóng tỉnh mình. 
Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi vẻ vang, miền Nam hoàn toàn giải phóng, lực lượng cách mạng làm chủ từ thành thị đến nông thôn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Tây Ninh bắt tay xây dựng cuộc sống mới, nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, đánh tan quân Khơmer đỏ giữ vững chủ quyền và an ninh quốc gia, giúp nhân dân Cămpuchia hồi sinh sau diệt chủng của chế độ PônPốt.
Mãnh đất bom cày đạn xới thời gian dài của các cuộc chiến tranh nay được phủ lên 1 màu xanh đầy sức sống của những cánh rừng, của lúa, mì, cao su, đậu phộng … và vùng nguyên liệu mía lớn nhất nước.

Vùng Đất Cổ

Trên lãnh thổ Tây Ninh, qua những di tích, di vật đã được khảo cổ học phát hiện tại nhiều địa điểm trong tỉnh, tiêu biểu nhất là ở Gò Dinh Ông thuộc ấp Voi, xã An Thạnh (Bến Cầu) chứng minh đã có dân cư đến sinh sống tại đây từ xa xưa ( thời kỳ đồ đá). Trong các di tích có rất nhiều công cụ, dụng cụ, vật dụng bằng đá, gốm, đất nung, xương, sừng cùng một số di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn thể, giáp xác. Trong các loại sản phẩm đồ đá thì nhiều nhất là các loại công cụ phục vụ cho việc chặt đốn cây rừng, vỡ đất hoang như rìu, cuốc. Có nhiều loại cuốc, có lẽ đã được sử dụng trong canh tác ruộng rẫy hoặc ruộng nương.
Trên cơ sơ hoạt động nông nghiệp phát triển nghề làm gốm được triển khai mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu bảo quản, cất trữ lương thực, nấu, đựng đồ ăn, thức uống.Trong các di tích của cư dân nơi đây, có nhiều loại đồ gốm được chế tác bằng bàn xoay từ đất sét có pha thêm cát mịn như: vò, nồi, bình, bát, mâm bồng, đĩa quả, bếp có 3 chân kiềng…
Theo địa sử học vào thời bấy giờ, vùng đầm lầy Duyên Hải bao gồm cả vùng châu thổ sông Cửu Long ngày nay. Vùng đầm lầy cùng với sông nước sông Vàm Cỏ Đông là địa bàn thuận tiện cho việc phát triển nghề đánh bắt thủy sản. Nhiều di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn thể, giáp xác được đánh bắt làm thực phẩm thời ấy còn bảo tồn khá lớn trong di tích.
Cuộc sống của lớp dân cư đầu tiên
Theo xu hướng phát triển chung của các quốc gia Đông Nam Á thời ấy, đại bộ phận cộng đồng dân cư trên vùng cao Tây Ninh- Vàm Cỏ Đông đã rời ruộng rẫy đến châu thổ nhiều sông rạch cùng sinh sống, làm ăn với nhóm người "ngoại nhập". Họ học nhiều nghề mới, tiếp nhận nhiều tri thức khoa học - kỹ thuật và cả tôn giáo mới, tạo lập cuộc sống phù hợp với môi trường sông nước, với thiết chế xã hội "đô thị” kiểu Ấn Độ xưa. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long dần trở thành vùng đất trù phú, một chốn "đô hội” năng động, văn minh vào bậc nhất Đông Nam Á thời đó (thế kỷ I -VII), một nhà nước lớn theo thể chế chính trị, tôn giáo Ấn Độ đã hình thành có quyền lực chi phối cả vùng hạ lưu sông Cửu Long - hải đảo Đông Nam Á được sử cũ Trung Hoa gọi là Phù Nam.
Những di tích của cư dân thời ấy ở châu thổ sông Cửu Long có đến hàng chục nơi được khảo cổ học gọi chúng là di tích văn hóa Óc Eo (là một hải cảng của đế đô Vương Quốc Phù Nam nằm ở ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang).
Vùng đất cũ Tây Ninh – Vàm Cỏ một thời là trung tâm nông nghiệp phát triển do sự di chuyển dân cư và chuyển dịch kinh tế đã nhanh chóng trở nên hoang vắng kéo dài vài trăm năm. Phải đến thế kỷ VI - VII mới bắt đầu có sự hưng khởi trở lại do có sự di chuyển dân cư từ châu thổ sông Cửu Long lên các vùng đất cao để tránh thiên tai, địch họa và để vượt qua cuộc khủng hỏang kinh tế - chính trị của Phù Nam. Những cộng đồng cư dân có gốc bản địa xa xưa lại trở về “đất cũ” với hành trang truyền thống đã có nội dung mới tiến bộ hơn văn minh hơn. Trong khoảng thế kỷ thứ VII -VIII trên đất cũ Tây Ninh, họ đã dựng lên hàng trăm ngôi tháp bằng gạch mà đến nay chỉ còn lại hai địa điểm lưu tồn không toàn vẹn cấu trúc tháp thờ xưa là Chót Mạt. Ngoài việc xây tháp, cư dân Tây Ninh thời đó còn tạc nhiều tượng thần, vật thiêng bằng đá hoặc đúc bằng đồng để thờ.
Thời ấy “nơi nơi có đền tháp, chốn chốn có thần linh”, tôn giáo Bà la môn phát triển "thịnh vượng". Tầng lớp tăng lữ, tu sĩ Ba la môn giữ vai trò rường cột trong xã hội. Với lao động theo niềm tin vào thần linh cao cả, dân chúng nô lệ lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng nhất cho sự phát triển về kinh tế - văn hóa của quốc gia Thủy Chân Lạp tồn tại trong khoảng thế kỷ VII -VIII sau công nguyên.
Từ thế kỷ thứ IX về sau, với sự hình thành vương quốc Ăngco - Campuchia trên vùng trung lưu và biển hồ sông Mekong, vùng Nam Bộ biến thành vùng tranh giành ảnh hưởng của các thế lực chính trị các vương quốc lớn bấy giờ (Ăngco - Chămpa - Java ) cộng đồng cư dân nơi vùng đất một thời phát triển phồn vinh về kinh tế, đặc sắc và rực rỡ về văn hóa phải lưu tán đến vùng đất khác trong nội địa hoặc phải rời đến những hải đảo xa xôi.
Địa bàn Tây Ninh cũng là "vùng đệm" giữa các quốc gia cổ đại nên cư dân cũng phải lưu tán đến những vùng đất khác. Những di tích của những cư dân tại chỗ vào thời này trên đất Tây Ninh cho đến nay rất hiếm thấy. Một đứt đoạn thứ hai (đứt đoạn thứ nhất: sau thời đại đồ đá, dân cư Tây Ninh - Vàm Cỏ tràn xuống đồng bằng sông Cửu Long) của văn hóa lịch sử diễn ra ở đây và kéo dài nhiều thế kỷ cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân cư mới trên đất Tây Ninh ngày nay.
Theo các nguồn sử liệu phương Tây thì từ đầu thế kỷ XVII, người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Gia Định. Họ cùng với cư dân địa phương - người Khơ me khai phá các khu vực chợ Quán, Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp… kéo dài đến Hóc Môn và dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh. Thành phần chủ yếu là nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng chủ yếu là nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng cực, điêu đứng vì tai họa chiến tranh, bị giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột tàn bạo không thể sống nổi, buộc phải rời bỏ làng xóm, quê hương đi một mình hoặc đem theo cả vợ con cùng bè bạn, xóm giềng vào vùng đất mới xa xôi tìm con đường sống. Chính con số đông đảo những người nông dân nghèo khổ phải xiêu tán đó là nguồn cung cấp cho làn sóng di cư vào đất Ðồng Nai - Gia Định, nơi họ nghe nói có đất đai rộng lớn phì nhiêu chưa được khai thác. Ngoài ra còn những người trốn binh dịch; tù nhân bị lưu đày; lính đảo, giải ngũ; thầy lang; thầy đồ nghèo… kể cả một số người vốn đã giàu có nhưng vẫn muốn tìm nơi đất mới để mở rộng làm ăn.
Cũng vào thế kỷ XVII có một số lớn người Hoa từ Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) đến vùng Ðồng Nai - Gia Định xin tị nạn và làm ăn sinh sống. Năm 1679 có khoảng 3.000 người, năm 1680 có 200 người do Mạc Cửu đưa đến vùng Hà Tiên.
Như vậy, cho đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng với người Hoa, người Khơ me, lưu dân người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Bến Nghé. Lúc này dân số tại đây đã lên tới 40.000 hộ với khoảng 200.000 người và chúa Nguyễn đã cho lập ra ở đây hai huyện (Phước Long và Tân Bình) với 2 dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn) đều thuộc phủ Gia Định để tiến hành quản lý hành chính. Đất Tây Ninh lúc ấy là đạo Quang Phong thuộc phủ Gia Định với dân số ước khoảng 1.000 người.
Từ đây, công cuộc khai phá vùng đất Tây Ninh nói riêng và Nam Bộ nói chung bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn.  
trên đất Tây Ninh - Vàm Cỏ Đông có lịch sử dài khoảng 2 thiên niên kỷ trước công nguyên, Trong khoảng thời gian ấy, mực nước biển Đông hạ thấp liên tục, phù sa sông Mekong không ngừng lấn ra biển, dần tạo nên châu thổ sông Cửu Long. Vào khoảng đầu công nguyên, châu thổ bắt đầu định hình và mực nước biển cũng ổn định ở mặt bằng như ngày nay. Con đường giao thương ven biển giữa Trung Quốc-Ấn Độ- Ba Tư bắt đầu mở rộng, trào lưu hội nhập văn hóa, tộc người giữa phương Đông với phương Tây diễn ra ngày càng rộng lớn.

Tây Ninh Thời Pháp Thuộc.
Thực dân áp đặt ách cai trị
Song song với việc hành quân đánh dẹp các cuộc nổi dậy, củng cố các đồn binh, mở đường đến các địa bàn ở phía nam tỉnh, thực dân Pháp lần lượt thiết lập hệ thống cai trị hành chính đối với dân chúng. Đặt toà tham biện ở Trảng Bàng và Tây Ninh, bên cạnh đó, xây dựng bộ máy tề ngụy tay sai từ tỉnh, quận xuống các tổng, xã, sóc, phum, đưa bọn địa chủ phong kiến phản động, bọn cơ hội trong Thiên chúa giáo, số chức sắc trong các sóc, phum của đồng bàn Khmer, Chăm vào bộ máy này.
Sau khi thiết lập xong bộ máy cai trị, thực dân Pháp bắt tay ngay vào việc vơ vé vét khai thác tài nguyên của Tây Ninh. Nguồn lợi thiên nhiên chủ yếu của Tây Ninh lúc bấy giờ là lâm sản. Diện tích rừng chiếm phân nửa diện tích đất toàn tỉnh, hầu hết là rừng già. Nhiều nơi một héc ta rừng có thể cho một khối lượng gỗ từ 100 đến 200 mét khối. Gỗ ở đây lại dễ khai thác vì địa hình bằng phẳng rất tiện lợi cho việc vận chuyển. Sau gỗ, rừng Tây Ninh còn cho nhiều loại lâm sản phụ như dầu trong, mủ chai (dùng để trát thuyền gỗ), mây, tre... và nhiều loại thú rừng từ voi, hổ, nai, cho đến nhím, cheo, kỳ đà...
Thực dân Pháp thấy rõ nguồn lợi kinh tế nói trên, đã dựng ngay bộ máy kiểm lâm đồ sộ và chặt chẽ, ở tỉnh có Sở Kiểm lâm (Cantonnement), bên dưới chia thành 7 quận Kiểm lâm (divison) với nhiều đồn (garderie). Ở mỗi quận Kiểm lâm có một sếp quận mà người làm rừng thường gọi là " Quan lớn kiểm" cùng một số viên chức có nhiệm vụ cấp giấy phép khai thác và thu thuế các loại lâm sản. Mỗi đồn thường có một tên đội, chuyên theo dõi, bắt giữ, phạt vạ những người làm rừng sai qui cách hoặc ăn tiền đút lót của những người làm rừng trái phép.
Cùng với việc khai thác nguồn lợi lâm sản, thực dân Pháp còn bao chiếm nhiều đất, khai mở đồn điền trồng cao su. Năm 1920, chúng lập ra Công ty Cao su Đông Dương (SIPH), Công ty này đã chiếm đất lập ra hai đồn điền ở Bến Củi, Vên Vên. Năm 1913 lại lập tiếp Công ty Cao su Tây Ninh, có trụ sở ở Sài Gòn, hoạt động của Công ty là kinh doanh đồn điền cao su ở Tây Ninh và Biên Hoà. Đây là loại đồn điền quy mô, có cả nhà máy chế luyện cao su. Bên cạnh đó, một số tư sản ngoại kiều được sự bao che của chính quyền thực dân, cũng bao chiếm đất lập ra nhiều đồn điền khá lớn như Sở Cầu Khởi, Sở Arnaut-nô, Sở Oconel, Sở China, Sở Phờ-răng-xi-ni Francini, Sở Séc-vanh Servirl. Địa chủ người Việt cũng có một số sở cao su nhỏ khoảng l0 - 15 héc ta. Tổng cộng khoảng 140 sở lớn nhỏ, trong đó An Tịnh l3 sở, Lộc Hưng 16 sở, Gia Lộc 20 sở. Từ Phước Thạnh, Thạnh Phước đến Lông Công, Bàu Đồn Đông Tây lộ 19, 26 cho đến Tua Hai, rồi Ninh Điền, Thanh Điền, Thái Bình, Đôn Thuận, tất cả đều có trồng cao su.
Các đồn điền cao su đem lại nguồn lợi rất lớn cho chính quyền thuộc địa và bọn chủ tư bản người Pháp.
Ngoài việc bóc lột vơ vét thông qua việc khai thác lâm sản chủ yếu là gỗ và mở đồn điền cao su, bọn thống trị Pháp còn thực hiện một chính sách thuế khoá hết sức nặng nề. Thuế là nguồn thu chính cho ngân sách chúng của toàn Đông Dương và Nam Kỳ cũng như của ngân sách tỉnh, vì vậy chúng đặt ra đủ loại thuế: Thuế điện thổ, thuế nhà cửa, thuế trâu bò, thuế môn bài cả đến thuế người gọi là thuế thân cho loại hữu sản, vô sản. Thống đốc Nam kỳ qui định mức thuế hàng năm tỉnh phải nộp cho ngân sách chung thường là rất nặng, đồng thời cho phép nếu không thu đủ thì tăng thuế, thậm chí tạo thêm các loại thuế mới để thu.
Đi đôi với vơ vét, bóc lột về kinh tế, bọn cai trị còn thi hành chính sách ngu dân, đầu độc về mặt văn hoá. Toàn tỉnh chỉ có 2 trường phổ thông cấp một hoàn chỉnh với khoảng 400 học sinh mà hầu hết là con em của tầng lớp trên. Ở xã chỉ có một lớp vỡ lòng hoặc lớp một, nhưng xã có, xã không. Vài ba xã mới có chung một trường dạy lớp ba. Do vậy con em nhân dân lao động hầu như chịu cảnh mù chữ hoặc chỉ biết đọc biết viết. Ngược lại, rượu ’’Phông ten’’ thì được Nhà Nước thực dân khuyến khích dân uống, đại lý bán buôn bán lẻ khắp nơi. Tệ nạn cờ bạc, mê tín dị đoan lan tràn khắp các thôn ấp, chỗ nào cũng có sòng chứa ngày đêm sát phạt lẫn nhau. Trên lãnh vực dân tộc, bọn thống trị Pháp áp dụng chính sách chia rẽ để trị. Chúng gây tâm lý hận thù dân tộc giữa người Việt và người Khmer, người Chăm, gieo rắc tư tưởng khinh bỉ, kỳ thị, phân biệt đối xử đối với các dân tộc ít người. Ngoài ra, chúng còn lợi dụng tính chất phác và tập quán sinh hoạt của người Khmer, người Chăm mà thẳng tay vơ vét, bóc lột, đẩy họ vào cảnh sống quanh năm cơ cực lầm than.

Vùng Đất Lịch Sử

Thánh thất Cao Đài gần nơi xảy ra vụ ném bom nhầm vào nhà dân và em Kim Phúc. Con đường này thời Pháp thuộc là QL1 đi từ SG qua Cambodge, ngày nay nó là Tỉnh lộ 22B.
Do có vị trí quan trọng (biên giới dài với Campuchia, có rừng rộng, núi cao, đường sông đường bộ thuận tiện, là cửa ngõ vào thành phố Hồ Chí Minh và nhiều đường liên lạc ra vào thuận tiện) nên trong quá trình hình thành và phát triển của tỉnh cũng là đối đầu quyết liệt chống ngoại xâm.
Thời kỳ đầu thành lập tỉnh, nhiều bậc đại thần đến Tây Ninh cùng dân chúng địa phương, kiên quyết bất khuất chống giặc bên kia biên giới xâm nhập, bảo vệ mảnh đất tiền tiêu của Tổ Quốc.
Khi giặc Pháp đặt gót giày xâm lược lên đất Tây Ninh, không chấp nhận hiệp ước đầu hàng của triều đình Huế, dân chúng địa phương đã cùng Khâm Tấn Tường, Trương Quyền, Pu Kăm Pô, Lãnh binh Tòng, Lãnh binh Két… liên tục tổ chức kháng chiến chống Pháp, đánh nhiều trận, diệt nhiều sĩ quan, binh lính Pháp. Những “đồng cỏ đỏ” ở Trảng Bảng, ở thị xã Tây Ninh mãi mãi ghi lại sự tích chiến thắng quân xâm lược của nghĩa quân làm cho máu giặc loang đỏ cánh đồng.
Cuộc đối đầu giữa độc lập dân tộc, và phản dân tộc, giữa cách mạng và phản cách mạng ngày một phát triển và quyết liệt thêm theo đà tăng trưởng của công cuộc khẩn hoang và các hoạt động kinh tế tại đây. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc, giải phóng người nông dân khỏi ách áp bức, bóc lột của địa chủ, xây dựng một chế độ xã hội mới, thiết lập quan hệ sản xuất mới, trong đó người cày có ruộng để cày, người trực tiếp sản xuất được làm chủ sản phẩm của mình làm ra.
Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ khi ra đời ( 3-2-1930) với hai nhiệm vụ chiến lược: chống đế quốc và phong kiến chính là nhằm giải quyết mâu thuẫn xã hội cấp bách đó. Đường lối cách mạng đúng đắn ấy đã được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ, theo Đảng nhất tề đứng dậy, làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chấm dứt thời kỳ nô lệ tăm tối ngót một thế kỷ trên đất nước ta, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên mới. Cùng với thắng lợi chung của cả nước, quân dân Tây Ninh dưới sự lãnh đạo của những người Cộng sản đã giành được chính quyền vào đêm 25-8-1945.
Nhưng sau đó không bao lâu thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh tái chiếm Việt Nam. Ngày 8-11-1945 tại Suối Sâu (huyện Trảng Bảng) đã vang lên những tiếng súng mở đầu cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ trên quê hương Tây Ninh.
Chín năm kháng chiến chống Pháp xâm lược, chiến trường Tây Ninh là nơi khó khăn nhất của “miền Đông gian lao và anh dũng". Vị trí và địa thế quan trọng của Tây Ninh đã thu hút mọi kẻ thù tập trung giành giật chiến trường này. Mọi chính sách thâm độc nhất như "tam quang", mọi mưu mô xảo quyệt nhất như "dùng người Khơ me giết người Việt" "dùng Cao Đài đánh Việt Minh”, đều được giặc Pháp và các tổ chức đảng phái, tôn giáo phản động triệt để áp dụng chống phá Cách mạng.
Đảng bộ Tây Ninh đã biết dựa vào quần chúng, củng cố tổ chức Đảng, mặt trận, chính quyền, lực lượng vũ trang, giữ căn cứ, giữ đất, giữ người. Quân dân Tây Ninh đã đánh hàng ngàn trận với giặc Pháp và liên tục chống trả bọn phản động Cao Đài, diệt giặc lấy súng giặc và tự sản xuất vũ khí trang bị cho mình, làm tròn trách nhiệm tại địa phương và bảo vệ tốt căn cứ địa cách mạng, làm chỗ đứng cho các cấp lãnh đạo của liên tỉnh, của Phân liên khu Miền Đông và Trung ương cục Miền Nam lãnh đạo toàn miền giành thắng lợi, chấm dứt cuộc kháng chiến chống Pháp.
21 năm kháng chiến chống Mỹ là trang sử hào hùng và ác liệt nhất của quân dân Tây Ninh. Chống trả với kẻ thù sừng sỏ nhất, quân dân Tây Ninh đã vượt qua thời kỳ đen tối, hy sinh trong đấu tranh chính trị, tạo thế, tích lực cho lực lượng cách mạng đứng lên “đồng khởi”, giành chiến thắng Tua Hai. Từ đó kết hợp võ trang với chính trị cùng toàn Miền lần lượt bẻ gẫy các chiến lược tàn bạo của tên Sen đầm quốc tế giàu tiềm lực kinh tế và quốc phòng, làm cho "Nhà trắng" luôn phải đau đầu, bao lần thay tướng đổi quân, cuối cùng chuốc lấy thất bại, xuống thang chiến tranh ngồi vào bàn hội nghị và chịu rút hết quân Mỹ về nước. Tuy nhiên, chúng vẫn còn nuôi ảo vọng chuyển thế cờ, dùng ngụy quân, ngụy quyền có Mỹ viện trợ tối đa chống lại lực lượng cách mạng. Bọn chúng không ngờ lực lượng cách mạng lớn nhanh như thần Phù Đổng, đè bẹp ngụy quân trong vòng 55 ngày đêm chiến dịch, buộc Tổng thống ngụy phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Quân dân Tây Ninh đã xứng đáng với lòng tin của lãnh đạo cấp trên, quật ngã kẻ thù trên chiến trường trọng điểm, làm tròn trách nhiệm bảo vệ căn cứ địa đầu não và tự lực giải phóng tỉnh mình
   Tây Ninh - Tay Ninh Tour.
Ngược quốc lộ 13, chúng tôi hăm hở về thăm di tích Trung ương Cục miền Nam (TWCMN) - nơi từng được gọi là “Thủ đô kháng chiến” của miền Nam. Nơi đây những kỳ tích vang bóng một thời trong những năm tháng kháng chiến chống  Mỹ cứu nước.

Cách thị xã Tây Ninh, xuôi quốc lộ 22B, chừng khoảng 60 km là đến Rùm Đuôn, nơi từng đóng cơ quan đầu não kháng chiến TWCMN. Nơi đây cách biên giới Campuchia chừng 1km theo đường chim bay, cách cửa khẩu Xamát chừng khoảng 4km. Vùng biên Tân Lập chào đón khách phương xa bằng không khí đặc thù của một vùng rừng nhiệt đới đặc trưng và cái nắng khô hanh đến gai người.

Phải mất gần một giờ đồng hồ, chúng tôi mới đến được “Thủ đô kháng chiến” miền Nam khi mặt trời đã xế bóng. Trước mặt chúng tôi, là một vùng xanh ngát, um tùm những cây cổ thụ và dưới tán rừng lá chi chít những dây leo. Thấp thoáng dưới những tán cây đại thụ là nhà làm việc của các vị lãnh đạo cao cấp của TWCMN đã đi vào huyền thoại như: Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt...
Các hướng dẫn viên kể những câu chuyện về một thời chiến đấu, một thời đạn bom của những con người đã đi vào huyền thoại Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Văn Linh, Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt … 
Các vật dụng trong nhà từ chiếc chõng tre, tủ, kệ bằng ván đến các súc gỗ làm bàn, ghế vẫn được giữ nguyên như trước đây. Mỗi nhà đều có hầm kiên cố được..
Căn nhà đồng chí đại tướng Nguyễn Chí Thanh-Bí thư TW Cục thờI kỳ 1964 -1967 từng ở, nay là nơi đặt di ảnh và bàn thờ đồng chí.
Nhà đồng chí Võ Văn Kiệt từng ở
Trước khi đi vào rừng, đoàn chúng tôi được vào tham quan tại Nhà trưng bày di tích lịch sử, với những hình ảnh tư liệu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, tận mắt chứng kiến những dụng cụ sinh hoạt và phương tiện vũ khí chiến đấu thô sơ. Trong số này có nhiều hiện vật lần đầu tiên được công bố như: Bàn làm việc có 3 ngăn, 3 đáy của đồng chí Lê Duẩn, mô hình căn nhà của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, súng tự tạo mang tên “Ngựa trời” và nhiều hình ảnh, hiện vật quý giá. Tận mắt nhìn thấy các hiện vật mới hiểu hết nỗi khó khăn gian khổ mà anh dũng của cán bộ lãnh đạo cách mạng miền Nam.

Di tích được phục chế tại căn cứ Trung ương Cục miền Nam - tỉnh Tây Ninh
  Ảnh: DƯƠNG THANH XUÂN 
Rời nhà truyền thống, con đường nhỏ đưa chúng tôi đến những căn nhà nhỏ bé đơn sơ ẩn mình sau tán lá rừng, có nhà hội họp tập thể, nhà làm việc của các cán bộ cao cấp, nhà ở của chiến sĩ và các ban, ngành. Những ngôi nhà này được dựng bằng tre, gỗ, mái lợp lá trung quân, phù hợp hoàn cảnh chiến tranh lúc bấy giờ. Các vật dụng trong nhà từ chiếc chõng tre, tủ, kệ bằng ván đến các súc gỗ làm bàn, ghế vẫn được giữ nguyên như trước đây. Mỗi nhà đều có hầm kiên cố được nối với nhau bởi một hệ thống giao thông hào liên hoàn. Chính tại nơi đây, các vị lãnh đạo đã từng ở và làm việc trong những năm tháng kháng chiến. Mặc dù nhiều lần bị địch đánh phá ác liệt nhưng  căn cứ “R” vẫn được bảo vệ vững chắc và trở thành biểu tượng của tinh thần quả cảm, trí thông minh, tài thao lược của quân và dân Việt Nam.

Theo anh Trương Duy Tân, hướng dẫn viên khu căn cứ cho biết: “Những căn nhà của các đồng chí lãnh đạo được phục chế nguyên trạng trên nền đất cũ và nổi trên mặt đất. Khi phục chế cột của những căn nhà được làm bằng bê tông giả gỗ tinh xảo, giống y chang hồi trước. Điểm độc đáo của những căn nhà ở đây là không có kèo, không lót đòn tay và đặc biệt nhất là mái lá trung quân. Đó là một loại lá giống lá xoài, nhưng dài hơn một tý. Lá được gấp lại, xỏ liên kết với nhau bằng lạt tre, đánh thành tấm lợp. Lá trung quân dai, bền, khó bị mục bởi mưa nắng và không bắt lửa. Nếu gặp lửa lá không cháy. Vì thế bom Mỹ giỏi lắm chỉ làm sập nhà chứ không làm cháy mái. Lá trung quân là lá một loại dây leo bám vào các cổ thụ. Bên  cạnh mỗi căn nhà là một hầm trú ẩn nửa chìm, nửa nổi”.

Cũng theo lời của anh Tân thì ngày xưa căn cứ được hình thành ba vành đai bảo vệ. Lớp thứ nhất gồm những thân cây vót nhọn cắm chi chít ngoài trảng trống để chống trực thăng đổ bộ. Lớp thứ hai bịt bùng những thân cây cưa đổ nhưng vẫn xanh tươi. Lớp trong cùng có hai lớp rào cây bảo vệ xen kẽ. Từ trên không nhìn xuống toàn bộ khu rừng vẫn xanh tươi nên máy bay dọ thám của địch… không phát hiện được.  Năm 1962, đơn vị cảnh vệ đầu tiên được thành lập tại đây. Nhiệm vụ của đơn vị là kiểm soát bảo vệ căn cứ, phòng ngự từ xa. Năm 1965, ATK (an toàn khu) được thành lập.

Chúng tôi ghé thăm bếp Hoàng Cầm, bếp đặc biệt là khi nấu áp suất không khí sẽ đẩy vào, khói sẽ theo các đường dẫn khí sẽ vào bên trong hầm chứa khói. Và từ những hầm chứa khói đó, sẽ có những ống dẫn khói nữa dẫn qua 2-3 hầm chứa, rồi sau đó, sẽ có nhiều ống dẫn khói tiếp tục lan tỏa lên những bụi, thân cây lớn. Khi đó, các anh nuôi sẽ lấy lá tủ lên nên khói sẽ bay là là dưới mặt đất nên địch rất khó phát hiện…

Điểm đặc biệt trong chuyến về Thủ đô kháng chiến của miền Nam là chúng tôi được hướng dẫn đến thăm Ban an ninh TWCMN. Tại đây, mỗi Ban An ninh của 31 tỉnh, thành phố từ Quảng Trị đến Cà Mau đều có đài tưởng niệm riêng. Chúng tôi đã cùng thắp nén hương ở phần di tích Công an Phú Yên.
Hằng năm, vùng căn cứ địa cách mạng đón rất nhiều du khách. Vì đó không những là nhu cầu của đông đảo cựu chiến binh, các chiến sĩ cách mạng mà còn là mong muốn của nhiều thế hệ trẻ hôm nay để được về nguồn, tưởng nhớ và biết ơn những người đi trước.
St từ Internet

 LỊCH SỬ TÂY NINH
Tây Ninh - TayNinhTour on 12 Tháng 3 2011.
Tây Ninh trước kia vốn là một vùng đất thuộc vùng Thủy Chân Lạp, có tên là Romdum Ray, tức Chuồng Voi vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn,... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang thì vùng đất này mới trở nên trù phú.
Vùng đất cũ Tây Ninh – Vàm Cỏ một thời là trung tâm nông nghiệp phát triển do sự di chuyển dân cư và chuyển dịch kinh tế đã nhanh chóng trở nên hoang vắng kéo dài vài trăm năm. Phải đến thế kỷ VI - VII mới bắt đầu có sự hưng khởi trở lại do có sự di chuyển dân cư từ châu thổ sông Cửu Long lên các vùng đất cao để tránh thiên tai, địch họa và để vượt qua cuộc khủng hỏang kinh tế - chính trị của Phù Nam. Những cộng đồng cư dân có gốc bản địa xa xưa lại trở về “đất cũ” với hành trang truyền thống đã có nội dung mới tiến bộ hơn văn minh hơn. Trong khoảng thế kỷ thứ VII -VIII trên đất cũ Tây Ninh, họ đã dựng lên hàng trăm ngôi tháp bằng gạch mà đến nay chỉ còn lại hai địa điểm lưu tồn không toàn vẹn cấu trúc tháp thờ xưa là Chót Mạt. Ngoài việc xây tháp, cư dân Tây Ninh thời đó còn tạc nhiều tượng thần, vật thiêng bằng đá hoặc đúc bằng đồng để thờ.

Thời ấy “nơi nơi có đền tháp, chốn chốn có thần linh”, tôn giáo Bà la môn phát triển "thịnh vượng". Tầng lớp tăng lữ, tu sĩ Ba la môn giữ vai trò rường cột trong xã hội. Với lao động theo niềm tin vào thần linh cao cả, dân chúng nô lệ lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng nhất cho sự phát triển về kinh tế - văn hóa của quốc gia Thủy Chân Lạp tồn tại trong khoảng thế kỷ VII -VIII sau công nguyên.

Hoàng hôn trên núi Bà Đen Tây Ninh
Từ thế kỷ thứ IX về sau, với sự hình thành vương quốc Ăngco - Campuchia trên vùng trung lưu và biển hồ sông Mekong, vùng Nam Bộ biến thành vùng tranh giành ảnh hưởng của các thế lực chính trị các vương quốc lớn bấy giờ (Ăngco - Chămpa - Java ) cộng đồng cư dân nơi vùng đất một thời phát triển phồn vinh về kinh tế, đặc sắc và rực rỡ về văn hóa phải lưu tán đến vùng đất khác trong nội địa hoặc phải rời đến những hải đảo xa xôi.

Địa bàn Tây Ninh cũng là "vùng đệm" giữa các quốc gia cổ đại nên cư dân cũng phải lưu tán đến những vùng đất khác. Những di tích của những cư dân tại chỗ vào thời này trên đất Tây Ninh cho đến nay rất hiếm thấy. Một đứt đoạn thứ hai (đứt đoạn thứ nhất: sau thời đại đồ đá, dân cư Tây Ninh - Vàm Cỏ tràn xuống đồng bằng sông Cửu Long) của văn hóa lịch sử diễn ra ở đây và kéo dài nhiều thế kỷ cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân cư mới trên đất Tây Ninh ngày nay.
Đến thế kỷ thứ XVII, người dân ở các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi và Bình Thuận bị thất mùa, nạn đói đe dọa. Họ được khuyến khích di cư vào các tỉnh miền Nam. Những người Việt đến định cư khai khẩn đất đai từ Hóc Môn lên đếnTrảng Bàng rồi qua Gò Dầu lên tận núi Bà Đen. Họ đến mang theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán và nền văn hóa khác với người Cambodia, nên khi người Việt đến đâu thì người Campuchia tự động lui về hướng tây tức vào sâu sang biên giới nước họ.
Thời gian này, Tây Ninh được triều đình Huế sát nhập vào tỉnh Gia Định (tức Phiên An trấn). Khi Chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh đuổi bỏ chạy vào Nam, ông đã chạy lên Tây Ninh ẩn náu, tìm đường sang Campuchia, rồi bắt liên lạc cầu viện quân Xiêm trợ giúp đánh lại nhà Tây Sơn. Nhưng cuối cùng nhà Tây Sơn đã đánh bại quân Xiêm. Năm 1789 Chúa Nguyễn nhờ đến viện binh là quân Pháp sang giúp. Đến năm 1802, Chúa Nguyễn Phúc Ánh dẹp xong nhà Tây Sơn và lên ngôi lấy vương hiệu là Gia Long, quốc hiệu là Đại Nam quốc. Đến thời kỳ vua Thiệu Trị và Tự Đức quân lính ở vùng Thủy Chân Lạp sang đánh phá muốn chiếm lại đất đai vì Tây Ninh lúc bấy giờ thuộc vùng lãnh thổ tiếp giáp giữa hai nước. Nhưng cuối cùng quân Campuchia thua cuộc.
Theo các nguồn sử liệu phương Tây thì từ đầu thế kỷ XVII, người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Gia Định. Họ cùng với cư dân địa phương - người Khơ me khai phá các khu vực chợ Quán, Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp… kéo dài đến Hóc Môn và dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh. Thành phần chủ yếu là nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng chủ yếu là nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng cực, điêu đứng vì tai họa chiến tranh, bị giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột tàn bạo không thể sống nổi, buộc phải rời bỏ làng xóm, quê hương đi một mình hoặc đem theo cả vợ con cùng bè bạn, xóm giềng vào vùng đất mới xa xôi tìm con đường sống. Chính con số đông đảo những người nông dân nghèo khổ phải xiêu tán đó là nguồn cung cấp cho làn sóng di cư vào đất Ðồng Nai - Gia Định, nơi họ nghe nói có đất đai rộng lớn phì nhiêu chưa được khai thác. Ngoài ra còn những người trốn binh dịch; tù nhân bị lưu đày; lính đảo, giải ngũ; thầy lang; thầy đồ nghèo… kể cả một số người vốn đã giàu có nhưng vẫn muốn tìm nơi đất mới để mở rộng làm ăn.

Cũng vào thế kỷ XVII có một số lớn người Hoa từ Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) đến vùng Ðồng Nai - Gia Định xin tị nạn và làm ăn sinh sống. Năm 1679 có khoảng 3.000 người, năm 1680 có 200 người do Mạc Cửu đưa đến vùng Hà Tiên.

Như vậy, cho đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng với người Hoa, người Khơ me, lưu dân người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Bến Nghé. Lúc này dân số tại đây đã lên tới 40.000 hộ với khoảng 200.000 người và chúa Nguyễn đã cho lập ra ở đây hai huyện (Phước Long và Tân Bình) với 2 dinh (Trấn Biên và Phiên Trấn) đều thuộc phủ Gia Định để tiến hành quản lý hành chính. Đất Tây Ninh lúc ấy là đạo Quang Phong thuộc phủ Gia Định với dân số ước khoảng 1.000 người.

Từ đây, công cuộc khai phá vùng đất Tây Ninh nói riêng và Nam Bộ nói chung bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn. 

Trên cơ sơ hoạt động nông nghiệp phát triển nghề làm gốm được triển khai mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu bảo quản, cất trữ lương thực, nấu, đựng đồ ăn, thức uống.Trong các di tích của cư dân nơi đây, có nhiều loại đồ gốm được chế tác bằng bàn xoay từ đất sét có pha thêm cát mịn như: vò, nồi, bình, bát, mâm bồng, đĩa quả, bếp có 3 chân kiềng…

Theo địa sử học vào thời bấy giờ, vùng đầm lầy Duyên Hải bao gồm cả vùng châu thổ sông Cửu Long ngày nay. Vùng đầm lầy cùng với sông nước sông Vàm Cỏ Đông là địa bàn thuận tiện cho việc phát triển nghề đánh bắt thủy sản. Nhiều di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn thể, giáp xác được đánh bắt làm thực phẩm thời ấy còn bảo tồn khá lớn trong di tích.
Tây Ninh vẫn thuộc phần lãnh thổ của tỉnh Gia Định. Song, do tỉnh Gia Định thời bấy giờ rất rộng lớn, bao gồm cả vùng đất Tây Ninh, Tân Bình, Chợ Lớn, Tân An và Gò Công nên đến thời kì Pháp thuộc, vùng Trảng Bàng trở thành ranh giới phân chia hai tỉnh Tân An và Tây Ninh. Tỉnh Tây Ninh gồm hai vùng đất chính là Tây Ninh và Gò Dầu. Điểm đặc biệt của vùng đất Tây Ninh là có vô số cây bàng lác, là loại cây chuyên dùng làm bao xách hay làm đệm. Còn Gò Dầu là vùng đất cao có vô số cây dầu mà người dân dùng để đốt làm đèn.
Ngày nay, Tây Ninh đã trở thành một tỉnh có vị trí quan trọng vì nằm ngay trên trục giao thông nối liền hai nước Việt Nam và Camphuchia, thuận lợi cho các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa và  phát triển.
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Tây Ninh - TayNinhTour.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, các ngành thương mại, dịch vụ tăng nhanh, chiếm tỷ trọng trên 30% trong GDP. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm 21,6%, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Sở Công thương, trong giai đoạn 2006 – 2010, hoạt động thương mại phát triển nhanh, tổng mức luân chuyển hàng hoá và doanh thu dịch vụ tăng bình quân là 29,41%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (15%). Tổng kim ngạch nhập khẩu xuất khẩu giai đoạn này đạt hơn 3,139 tỷ USD, tăng bình quân hằng năm 22,16%, đạt 116,26% so kế hoạch (NQ: 2,7 – 2,8 tỷ USD). Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt hơn 1,9 tỷ USD, tăng bình quân hằng năm 18,45% (NQ: 18,6%).

Tiềm năng DU LỊCH của tỉnh chưa được khai thác, đầu tư đúng mức.
Trong ảnh: Di tích tháp Chót Mạt (xã Tân Phong, huyện Tân Biên)
Một số ngành dịch vụ có tác động mạnh đến KT-XH của tỉnh như ngành DU LỊCH có sự chuyển biến trong xúc tiến, quảng bá, nâng cao chất lượng và thu hút du khách. Đến năm 2010, khách tham quan DU LỊCH núi Bà Đen đạt khoảng 2 triệu lượt người, Khu kinh tế cửa khẩu thu hút khoảng 2,2 triệu lượt khách tham quan, mua sắm. Dịch vụ vận tải được nâng lên, vận tải công cộng bằng xe buýt, taxi trong nội thị được hình thành, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, đô thị hoá và phục vụ nhu cầu của nhân dân. Mạng lưới ngân hàng được mở rộng đến các huyện thị; số lượng, chất lượng các sản phẩm dịch vụ tiện ích tăng lên. Nguồn vốn huy động tăng bình quân hằng năm 38%, dư nợ tăng bình quân hằng năm 25%/năm...
Dù đạt được một số kết quả nhất định nhưng mạng lưới thương mại, dịch vụ vẫn còn một số mặt hạn chế như hạ tầng thương mại chậm phát triểnphát triển chưa đều so với nhu cầu phát triển KT-XH của tỉnh. Hệ thống phân phối chưa thiết lập được kênh lưu thông hàng hoá thông suốt ổn định giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng. Lợi thế biên giới, cửa khẩu chưa được khai thác đúng mức, đầu tư hạ tầng cửa khẩu còn thấp. Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là xuất thô hoặc sơ chế. Thị trường tiêu thụ bấp bênh, chưa ổn định. Hệ thống các chợ trên địa bàn tỉnh còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn chưa đáp ứng yêu cầu. Tiềm năng DU LỊCH chưa được khai thác, đầu tư đúng mức, cơ sở vật chất phục vụ DU LỊCH còn yếu kém; các loại hình dịch vụ, sản phẩm phục vụ  DU LỊCH chưa phong phú. Việc hỗ trợ doanh nghiệp trong hoạt động xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế; cung cấp thông tin cho doanh nghiệp chưa kịp thời, chưa phong phú.
Tây Ninh chỉ có các doanh nghiệp hoạt động thương mại dịch vụ vừa và nhỏ, chưa có doanh nghiệp lớn. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp theo cơ chế thị trường còn yếu, còn lúng túng trong định hướng phát triển, chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư để mở rộng và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Các HTX thương mại dịch vụ đã giải thể hoặc chỉ hoạt động cầm chừng, không phát huy được tác dụng trên thị trường.  
Trước thực trạng đó, Sở Công thương đã dự thảo Chương trình hành động về phát triển thương mại, dịch vụ trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011 – 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 để UBND tỉnh thảo luận thông qua, trình Tỉnh uỷ xem xét ban hành nhằm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX. Mục tiêu đặt ra là phát triển nhanh và bền vững các ngành thương mại, dịch vụ, tạo sự chuyển biến nhanh về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, dịch vụ. Xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh. Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Hệ thống phân phối chưa thiết lập được kênh lưu thông hàng hoá thông suốt ổn định giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng
Dự thảo Chương trình hành động nhấn mạnh, trong giai đoạn 2011 – 2015, cần tập trung phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 14,5 – 15%, trong đó khu vực dịch vụ khoảng 14,5- 15%. Cơ cấu kinh tế vào năm 2015 (theo giá hiện hành) dự kiến khu vực dịch vụ chiếm khoảng 36,5 – 37%. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân hằng năm từ 14% trở lên. Phấn đấu tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 25%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 20%, trong đó xuất khẩu qua biên giới đất liền chiếm tỷ lệ 6%. Về DU LỊCH , lượng khách trong nước và quốc tế tăng 10%/ năm, có 194 DU LỊCH , nhà nghỉ với 2.579 phòng.
Phát triển vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt trên địa bàn tỉnh với 10 tuyến; phương tiện vận tải đường bộ trên 3.557 chiếc ô tô khách và phương tiện vận tải hàng hoá có trên 4.028 chiếc; phương tiện vận tải đường sông có từ 1.320 chiếc tàu vận tải; các bến xe được nâng cấp mở rộng với tổng diện tích từ 46,1ha trở lên.
Tăng trưởng nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại bình quân hằng năm trên 16%, tăng trưởng tín dụng bình quân hằng năm trên 17%. Tốc độ tăng sản lượng bưu chính đạt 8-12%/ năm, xây dựng và phát triển mạng viễn thông hiện đại, đồng bộ và rộng khắp. Cung cấp các dịch vụ đa dạng, chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, mật độ thuê bao internet quy đổi đạt 8-12 thuê bao/ 100 dân với tỷ lệ sử dụng internet đạt 25 – 35% dân số. Về y tế có 2.225 giường bệnh, 735 cửa hàng, quầy bán thuốc chữa bệnh.
Giai đoạn 2016 – 2020 phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15,5 – 16%, trong đó khu vực dịch vụ khoảng 15-15,5%. Cơ cấu kinh tế vào năm 2020 dự kiến khu vực dịch vụ chiếm khoảng 38 – 39,5%. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hằng năm 23-25%. Các bến xe được nâng cấp mở rộng với tổng diện tích từ 69,5ha.
Về bưu chính, viễn thông, 100% các dịch vụ hành chính công được cung cấp trên mạng...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét