Địa lý
HNP - Thăng Long- Hà Nội nằm ở tọa độ: 210 05 vĩ tuyến Bắc, 1050
87 kinh tuyến Đông, trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng, đất đai mầu
mỡ, trù phú. được che chắn ở phía Bắc - Đông Bắc bởi dải núi Tam Đảo và
ở phía Tây - Tây Nam bởi dãy núi Ba Vì - Tản Viên, khoảng cách là
50km.
Bản đồ Hà Nội |
Thế kỷ XX,
Hà Nội nhiều lần xảy ra động đất cấp 6 và đã 2 lần động đất cấp 7.
Những năm gần đây, hiện tượng động đất ở vùng Hà Nội tăng lên rõ rệt.
Mặt đất Hà Nội xuất hiện nhiều khe nứt sâu, phương Tây Bắc – Đông Nam,
trùng với hướng sông Hồng và cũng là hướng các đứt gãy sâu trong vỏ trái
đất.
Một điều hiển nhiên, đất Hà
Nội là đất bãi và trên bãi của sông Hồng, do phù sa sông Hồng đắp đổi.
Cho nên đất Hà Nội nội thành, bên Hồ Tây, có dòng Tô Lịch, lại có rất
nhiều đầm hồ. Xem trên bản đồ từ thời xưa cho đến giữa thế kỷ này, thì
lãnh thổ Hà Nội là một vùng đầm lầy, một thành phố sông hồ, nửa đất, nửa
nước. Phần lãnh thổ chủ yếu của Thăng Long – Hà Nội xưa là phần đất
bồi, được bao bọc bởi sông Hồng ở Bắc và phía Đông, bởi sông Tô Lịch và
sông Kim Ngưu (nhánh sông Tô) ở phía Tây và phía Nam.
Trong tờ chiếu (hỏi ý các quan) về việc dời Đô, Lý Công Uẩn nói: “Ở
trung tâm cõi bờ đất nước, có cái thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa
bốn phương Đông Tây Nam Bắc, địa hình thế núi sông sau trước. Ở nơi đó
địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao mà sáng sủa, cư dân không khổ
vì ngập lụt, muôn vật đều phì nhiêu tươi tốt. Xem khắp nước Việt ta chỗ
ấy là nơi hơn cả, thực là chỗ bốn phương tụ hội, là nơi đô thành bậc
nhất của Đế vương muôn đời!”
Ta
có thể xem đó là một bản tuyên ngôn địa chính trị - địa chiến lược về Hà
Nội nghìn xưa và cái “rốn” của Long thành là núi Nùng. Trên núi ấy, các
vua Lý-Trần-Lê xây điện Càn Nguyên, điện Kính Thiên và núi Nùng. Huyền
thoại được thiêng hoá và cùng Sông Cái, trở thành hai biểu tượng của
Kinh thành Núi Nùng-Sông Nhị.
HNP
Vị trí Hoàng thành Thăng Long
(15:36 10/12/2009)
HNP
- Hoàng thành là vùng bao quanh cung - điện hoàng gia , mở 4/5 cửa Đông
(xưa cửa Đông lan tới Hàng Cân – Hàng Đường; Đông môn tự (chùa) ở 38B
Hàng Đường. Đông Môn đình ở 10 Hàng Cân. Tây: bia chùa Đọi được xây dựng
ở “Vườn phía Tây Cấm thành”. Cửa Tây, như đã nêu, ở khoảng giữa Hùng
Vương-nhà họp Quốc hội. Bắc (cửa Bắc nay), Nam: 2 cửa, 1 ở phía chợ Cửa
Nam nay trông ra vườn hoa Cửa Nam, 1 ở xế chân Cột Cờ nay, thẳng góc
theo trục Kính Thiên – Đoan Môn - Cửa Nam (cũ) đã bị phá.
Ảnh: Thành Hà Nội xưa |
Về tổng thể,
kinh thành Thăng Long thời Lý được xây dựng theo kiến trúc”tam trùng
thành quách”( 3 vòng tường thành lồng vào nhau): vòng ngoài cùng gọi là
thành Đại La( La thành),vòng thành giữa gọi là Hoàng thành, vòng thành
trong cùng gọi là Cấm thành (còn gọi là Nội Cấm, Cấm Nội) , có tường bao
các cung-điện chính mà cửa nam Cấm thành, như đã nói là Đoan Môn.
Vị
trí núi Nùng ngày nay chính là điện Kính Thiên thời Lê và xưa hơn là
điện Thiên An, điện Càn Nguyên thời Lý - Trần –Lê, tức là trung tâm của
Hoàng thành và cũng là trung tâm của Cấm thành Thăng Long thời Lý - Trần
– Lê. Như vậy, cuộc khai quật tại khu vực dự kiến xây dựng nhà Quốc
Hội và hội trường Ba Đình (mới) chính là một bộ phận thuộc trung tâm
phía Tây của Hoàng thành và Cấm Thành thời Lý - Trần – Lê.
Hiện tại
(08:53 14/12/2009)
HNP
- Vị thế trung tâm kinh tế của Hà Nội đã được thiết lập từ rất lâu
trong lịch sử. Tên những con phố như Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng Than… đã
minh chứng cho điều này. Tới thế kỷ gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ
của Sài Gòn và khu vực Nam Bộ, Hà Nội chỉ còn giữ vị trí quan trọng thứ
hai trong nền kinh tế Việt Nam.
Nhiều nhà cao tầng đang được xây dựng |
Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà… cũng dần phục hồi và phát triển.
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 Văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Bên cạnh những công ty Nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội.
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 Văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Bên cạnh những công ty Nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội.
Sau
khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2
triệu người đang trong độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu
lao động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn
phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển
theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn
đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm, dịch vụ cũng
như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp,
dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát
triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy
động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
Giao thông
(17:01 11/12/2009)
HNP
- Là Thủ đô nằm ở vị trí trung tâm của miền Bắc, nối giao thông từ Hà
Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả
đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt.
Ảnh: Sân bay quốc tế Nội Bài |
Ngoài sân bay quốc tế Nội
Bài cách trung tâm khoảng 35km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía
Đông, thuộc quận Long Biên. Từng là sân bay chính của Hà Nội những năm
1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của
trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm
tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh (Trung
Quốc), đi nhiều nước Châu Âu. Các bến xe phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên,
Nước Ngầm, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp quốc
gia theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc - Nam, quốc lộ 2 đi Vĩnh Phúc, Phú
Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, quốc lộ 3 đi Thái Nguyên, Cao Bằng, quốc lộ
5A đi Hải Phòng, Quảng Ninh, quốc lộ 6 đi Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu,
quốc lộ 32 đi Sơn Tây, Phú Thọ… Giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là
đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định,
Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại.
Trong
nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô
thị thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn - đặc biệt
là xe máy và gần đây là ô tô tăng lên rất nhanh - cộng với ý thức chưa
tốt của các cư dân thành phố. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát
triển thêm 5 tới 10km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố
thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một
vài điểm cũng chưa thật hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi
mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên
2000, hệ thống xe buýt - loại hình phương tiện giao thông công cộng duy
nhất - của thành phố phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử
dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy.
Theo
quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm
2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba
tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ
được xây dựng mới hoặc cải tạo lại.
Du Lịch
(16:57 11/12/2009)
HNP
- So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố
có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công
trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc
nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn
hoá Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân
gian, các làng nghề truyền thống…
Ảnh: Bảo tàng dân tộc học ở Hà Nội |
Mặc dù vậy, các thống kê
cho thấy Hà Nội không phải là một thành phố du lịch hấp dẫn. Với nhiều
du khách quốc tế, thành phố chỉ là điểm chuyển tiếp trên hành trình khám
phá Việt Nam của họ. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch
ngoại quốc, gần bằng một nửa lượng khách của Thành phố Hồ Chí Minh. Năm
2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách
nước ngoài. Tỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng của Hà Nội cũng không
cao. Hàng năm, Bảo tàng Dân tộc học ở Hà Nội, một bảo tàng có tiếng
trong khu vực, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch
nổi tiếng, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước
ngoài.
Theo con số năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở khách sạn lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3-5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel, Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza và Inter Continental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao. Theo các dự án mới được cấp phép và chấp thuận đầu tư gần đây, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm khoảng 2000 phòng khách sạn cao cấp.
Theo con số năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở khách sạn lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3-5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel, Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza và Inter Continental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao. Theo các dự án mới được cấp phép và chấp thuận đầu tư gần đây, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm khoảng 2000 phòng khách sạn cao cấp.
Chăm sóc sức khỏe
(16:24 11/12/2009)
HNP
- Hà Nội là nơi có mật độ các cơ sở y tế công lập tập trung khá cao với
86 đơn vị trực thuộc Sở Y tế (tính đến hết năm 2008).
Số cơ sở y tế ngoài công
lập là 5.728, bao gồm cả hành nghề y tư nhân, hành nghề dược tư nhân và
hành nghề y học cổ truyền. Tuy vậy, nhu cầu khám, chữa bệnh vẫn rất cao,
các bệnh viện thường xuyên trong tình trạng quá tải. Và không chỉ có
khám, chữa bệnh, trong đời sống xã hội phát triển, người dân ngày càng
có nhu cầu cao trong việc phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe thường xuyên.
Thực tế đó đòi hỏi thành phố phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa y
tế.
Theo Phó Chủ tịch UBND thành phố
Đào Văn Bình, Hà Nội đã có đề án đẩy mạnh xã hội hóa y tế thành phố
giai đoạn 2009-2015 với mục tiêu là đầu tư vốn xây dựng các cơ sở y tế
để đến năm 2015 đạt 20 giường/10.000 dân. Để đạt được mức này thì cần
phải bổ sung 10.000 giường nữa. Bên cạnh đó còn phải tập trung nâng cao
chất lượng chẩn đoán, điều trị bệnh… Theo đó, từ nay đến năm 2015 thành
phố sẽ huy động vốn xã hội hóa khoảng 1.734 tỷ đồng để hiện đại hóa
trang thiết bị y tế, xây dựng 16 bệnh viện ngoài công lập với 3.350
giường, cấp thêm đất cho 10 bệnh viện tư nhân và hoàn thành quy hoạch
xây dựng 5 cụm bệnh viện liên hoàn (cụm phía Đông thuộc huyện Gia Lâm,
cụm phía Tây thuộc khu vực Phúc Thọ và Sơn Tây, cụm phía Nam thuộc huyện
Thường Tín, cụm phía Tây Nam thuộc huyện Chương Mỹ và cụm phía Bắc
thuộc khu vực Sóc Sơn, Mê Linh). Chú trọng phát triển nguồn nhân lực cân
đối, hợp lý, bảo đảm đạt các chỉ tiêu cơ bản như: Có hơn 15 bác
sĩ/10.000 dân, 3 đến 3,5 điều dưỡng hộ sinh/1 bác sĩ.
Trong
vài năm trở lại đây, đầu tư xã hội hóa y tế ở thành phố phát triển mạnh
trong lĩnh vực trang thiết bị y tế, xây dựng các phòng khám theo nhu
cầu, phòng khám ngoài giờ, các khu y tế kỹ thuật cao. Nhiều đề án xã hội
hóa thu hút vốn đầu tư trang bị máy móc kỹ thuật cao đã được thực hiện
trong các bệnh viện công như: Đề án MRI, Hệ thống phẫu thuật Phaco của
Bệnh viện Xanh pôn, Đề án xã hội hóa Bệnh viện Tim, Đề án đầu tư hệ
thống xạ trị gia tốc của Bệnh viện Ung bứu, Đề án tăng cường nhân lực
Bệnh viện đa khoa Thanh Trì, các Đề án xã hội hóa Phòng khám 21 Phan Chu
Trinh và phòng khám 107 Tôn Đức Thắng… Hệ thống cơ sở y tế ngoài công
lập phát triển khá nhanh. Như đã nêu trên, có 5.728 cơ sở y tế, trong đó
có 13 bệnh viện tư nhân. Hệ thống này đã đảm nhận 30% tổng số hoạt động
khám, chữa bệnh thông thường, chia sẽ không ít cho hệ thống công lập.
Công tác xã hội hóa y tế của thành phố phát triển như hiện nay được đánh
giá là đáng khích lệ. Nó đã tạo ra được cơ chế cạnh tranh buộc các cơ
sở khám, chữa bệnh phải thay đổi chiến lược, nâng cao chất lượng phục
vụ. Người dân, trong đó cả người nghèo, trẻ em, đối tượng chính sách đã
có điều kiện tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ y tế, một số đã được sử
dụng dịch vụ kỹ thuật cao.
Tuy nhiên,
đẩy mạnh xã hội hóa y tế đang gặp phải không ít khó khăn. UBND thành
phố Hà Nội cho biết quỹ đất sạch giành cho các dự án gọi đầu tư xã hội
hóa y tế còn hạn hẹp. Các chính sách, cơ chế quản lý việc huy động đầu
tư còn thiếu, không quy định rõ ràng, quyền lợi, trách nhiệm của nhà đầu
tư, của bệnh viện. Thủ tục để xây dựng các bệnh viện ngoài công lập
phải qua nhiều khâu do vậy chưa huy động được nguồn vốn để xây dựng được
các bệnh viện ngoài công lập quy mô lớn, mà chỉ có những dự án bệnh
viện quy mô nhỏ (dưới 100 giường và chủ yếu là cải tạo sửa chữa công
trình nhà ở trong các khu dân cư.
Giải
pháp mà thành phố đề ra nhằm khắc phục những vướng mắc là tích cực cải
cách thủ tục hành chính, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về xã hội
hóa công tác y tế. Tăng cường đầu tư, hỗ trợ nguồn lực cho y tế như: Có
chính sách khuyến khích huy động nguồn lực đầu tư cho y tế. Tạo quỹ đất
sạch và công khai hóa các địa điểm xây dựng cơ sở ngoài công lập để thu
hút đầu tư. Thành phố sẽ tiếp tục hỗ trợ kinh phí hiện đại hóa trang
thiết bị y tế cho bệnh viện công giai đoạn 2010-2015 là 400 tỉ đồng và
hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng cho các bệnh viện tư nhân đến năm
2015 là 450 tỷ đồng. Có chính sách khuyến khích thành lập trường đại
học, cao đẳng y tế tư nhân để gia tăng nguồn nhân lực phục vụ ngành y…
Làng nghề, phố nghề
(16:30 11/12/2009)
HNP
- Có 24 làng nghề , gốc là nghề trồng lúa, trồng màu. Các nghề thủ công
mỹ nghệ “nổi tiếng” vốn dĩ chỉ là nghề phụ, nghề làm thêm, nghề “tay
trái”, thực hiện trong những dịp nông nhàn.
Ảnh: Thợ khảm xà cừ |
Ở
mỗi làng trong 24 làng ấy bao giờ cũng có vài ba nghề thủ công, hay hơn
nữa (ví dụ làng Chàng Kẻ Nưa có 17 nghề). Chẳng làng nào chỉ duy nhất một nghề. Song không phải làng nào cũng “nổi đình nổi đám cả”.
Nổi lên được hay chìm lắng xuống, tất cả là do sự kích thích, hay không kích thích nữa của nhu cầu thị trường.
Thị trường nội đô, thị trường ven đô, thị trường vùng miền, thị trường
Miền Bắc, thị trường cả nước rồi/và thị trường thế giới…
Hãy chỉ nói đến thị trường nội đô.
Ở đây có nhiều tầng lớp thị dân, có đời sống kinh tế “dễ chịu” hay sung
túc, do làm ăn tài giỏi, từ đó mà có úng xử, sành ăn sành mặc, sành
dùng, sành chơi…(2)
Ở
làng nghề Nghĩa Đô có “họ Lại làm giấy sắc rồng” vì nền quân chủ Đại
Việt có nhu cầu viết chiếu sắc. Ở Kẻ Mơ có thái ấp của thượng tướng Trần
Khát Chân thì sẽ có rượu, “Rượu Kẻ Mơ, cờ Mộ Trạch”, có đậu phụ Mơ, xôi
Mơ…rất ngon và đặc sắc. Ở làng Bưởi (Yên Thái), các cô gái làm giấy
lệnh, giấy hội…vì có nhu cầu hành chính, nhu cầu thi cử của tầng lớp sĩ
phu, quan lại, nhu cầu in, viết kinh của tầng lớp sư sãi. Các cô gái
Bưởi “làm giấy cơ hàn vẫn tươi” vì : “Dám xin nho sĩ (sư sãi) chớ cười- Vì em làm giấy cho người đề thơ (viết kinh)”.
Quanh Thăng Long- Đông Kinh- Hà Nội hình thành dần các làng chuyên doanh đặc sản mà tác giả 24 làng nghề đã nêu ra: giấy Bưởi, tre đan, Làng Vẽ, sơn Đông Mỹ, liềm xeo giấy và bánh mứt kẹo Xuân Đỉnh, cốm Vòng, bỏng Lủ (cốm), dệt vải và rèn vùng Gối, quạt Chàng, quạt Vác, đũi Dày, gốm sứ Bát Tràng
(thế kỷ XVI- XVII mỗi năm xuất khẩu hàng chục vạn bát đĩa, bình sứ và
bát sứ Bát Tràng ra các nước Đông Nam Á hải đảo, Nhật Bản…) và làng hoa Ngọc Hà
vốn có chợ Hoàng Hoa mà sử cũ ghi vào đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ
XIX được kích thích trồng thêm nhiều giống hoa mới nhập từ Pháp để cung
ứng nhu cầu về hoa của các ông Tây bà Đầm thực dân. Người Ngọc Hà còn
được tổ chức vào Đà Lạt trồng hoa, làm thành một xóm riêng ở Đà Lạt.
Tóm
một câu, nghề với người làng nghề “thần dân loại 3” của chế độ quân chủ
Nho giáo (tứ dân: Sĩ, Nông, Công, Thương) từ trăm sông “kẻ quê” đã dồn
về biển cả Kẻ Chợ. Làng nghề ven đô, giao lưu kinh tế- văn hoá với nội
đô, chuyển hoá dần trong một diễn trình lịch sử lúc thăng, lúc trầm,
tiếp xúc và biến đổi, đan xen và giao thoa…để làm nên Di sản văn hoá Thăng Long- Hà Nội.
- Ngát thơm hoa sói hoa nhài
Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ
- Khéo léo tay nghề (hay Khéo tay hay nghề), đất lề Kẻ Chợ (Hà Nội).
* Nghề hàng Bạc, Phố Hàng Bạc
Hàng Đào ríu rít, Hàng Đường, Hàng Bạc, Hàng Ngang…
Những
phố phường cổ kính còn vương lại trong vài dáng hình kiến trúc một nếp
sống xa xa của mảnh đất Rồng bay… Những phố phường tiêu biểu cho diện
mạo Hà Nội ngày nào… Khu vực “gây ấn tượng” nhiều nhất với người trong,
người ngoài Hà Nội… Điểm dân cư luôn tấp nập, đông vui, rộn ràng chảy
ngược Đồng Xuân, chảy xuôi Bờ Hồ, phố Huế…
Sau
triều đình mãi cuối thế kỷ XIX mới mua lại với giá 120 đồng cái đền nội
miếu ở phố Hàng Giày, vốn hướng Nam, tu tạo lại, xoay hướng Đông. Bây
giờ cổng đền đã ghi biển “Trâu Khê vọng từ”. Đền ở Hàng Giày, nhưng của
dân Hàng Bạc.
Từ triều
Gia Long, trong phố có một vị Ty quan để quản lý bạc, thu bạc vụn của
tỉnh trao, giao lại cho tràng truyện đúc thành bạc tốt, từng “nén” đủ 10
lạng và 10 tuổi. Hễ khi tỉnh đến nhận, sẽ trao trả lại, đặng đưa về
kinh nhập vào công khố. Hàng tràng lấy chỗ hai đình làm nơi xem duyệt sổ
sách hằng năm. Trong đình có một hòm gỗ đựng bạc tiền có bốn khoá, cử
bốn người, mỗi người giữ một khoá.
Việc đúc bạc nén có thể phân làm hai khâu, hai đợt. Khâu đầu, đợt 1, trong nghề gọi là truyên bạc.
Trước
hết, lấy vôi bột đã để cho thật hả, gạch non giã nhỏ và gio bếp (gio
củi, hay gio vỏ bưởi thì tốt vì nhẹ, xốp), tất cả đem rây cho thật nhỏ,
nhào với nước, nặn thành hình cái chảo. Đó là đồ nấu bạc. Còn như dụng
cụ thì có bễ, vài cái que sắt, mấy cái kìm dài cán, nhành chặt, dao
chặt…
Cho bạc vụn,
hoặc còn lẫn các loài kim khí khác vào chảo, kéo bễ đốt lò mà nấu. Nấu
bằng than củi, xưa gọi là than tàu, không dùng than đá. Để đỡ tốn, bạc
bắt đầu chảy ra rồi mới dùng củi.
Bạc
chảy rồi thì cho chì vào. Phải liệu bạc mà cho chì. Cho ít chì quá, bạc
không đủ tuổi. Cho nhiều chì quá sẽ hao bạc, nhà nghề gọi là đì bạc.
Bạc vụn, mà xem ra chừng 7 tuổi, thì cho chừng năm lạng chì trong một
nén. Chì chảy, quyện các tạp chất khác, để bạc đủ tuổi 10…
Nấu bạc, cần nhìn váng và sao. Váng là cái màng màu xam xám như bọt cơm. Sao lại là bọt lửa, chạy đi chạy lại. Bạc gần được, sao váng ít dần đi. Sao váng hết thì bạc cũng được.
Để nguội, dỡ ra lấy bạc tốt, còn lại những cặn bã, xi đọng ở chảo vôi gio, nhà nghề gọi là đì bạc. Dân Kẻ Sặt Từ Sơn ngày trước sang phố Hàng Bạc mua đì về tán nhỏ, làm rút đồng, chì, bạc…
Bạc tốt đem về chặt thành từng miếng, cân lên mười lạng một, tức là một nén.
Khâu thứ hai là khâu đúc bạc.
Nồi
nấu nặn bằng đất thó trộn với gio, trấu, phơi hoặc nung thật khô. Những
miếng bạc chặt cân đủ nén, cho vào nồi nấu. Nấu bạc phải cho vào một ít
hàn the. Hàn the, khoa học gọi là Bô rát nát ri (Bo3Na2) làm cho bạc
chóng chảy và láng mặt. Hàn the bám vào vách nồi thành chai.
Bạc chảy loãng sẽ đem đổ khuôn.
Khuôn đúc bạc nén, nhà nghề gọi là thão. Thão bằng sắt, có chuôi bằng gỗ. Trước khi đổ bạc, phải bỏ thão cho rõ thật nóng. Than gỗ thông tán nhỏ xoa vào thão, rồi thoa ít dầu ta- dầu cây thầu dầu, dầu thắp đèn ngày xưa, để cho bạc khỏi dính vào thão.
Bạc đã đổ khuôn xong, nén bạc còn nóng đỏ, phải lấy ra sửa sang ngay cho đẹp nén bạc. Dùng búa nhỏ gõ cho vuông vắn. Trao thão
có nổi chỉ, giữa hơi lõm. Nén bạc vì thế có vấu ở dưới và có đủ thành
chỉ. Sửa sang xong, đóng dấu có hai chữ “Thập túc” (đủ 10) vào thành nén
bạc
Chăm sóc sức khỏe
(16:24 11/12/2009)
HNP
- Hà Nội là nơi có mật độ các cơ sở y tế công lập tập trung khá cao với
86 đơn vị trực thuộc Sở Y tế (tính đến hết năm 2008).
Số cơ sở y tế ngoài công
lập là 5.728, bao gồm cả hành nghề y tư nhân, hành nghề dược tư nhân và
hành nghề y học cổ truyền. Tuy vậy, nhu cầu khám, chữa bệnh vẫn rất cao,
các bệnh viện thường xuyên trong tình trạng quá tải. Và không chỉ có
khám, chữa bệnh, trong đời sống xã hội phát triển, người dân ngày càng
có nhu cầu cao trong việc phòng bệnh và chăm sóc sức khỏe thường xuyên.
Thực tế đó đòi hỏi thành phố phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa y
tế.
Theo Phó Chủ tịch UBND thành phố
Đào Văn Bình, Hà Nội đã có đề án đẩy mạnh xã hội hóa y tế thành phố
giai đoạn 2009-2015 với mục tiêu là đầu tư vốn xây dựng các cơ sở y tế
để đến năm 2015 đạt 20 giường/10.000 dân. Để đạt được mức này thì cần
phải bổ sung 10.000 giường nữa. Bên cạnh đó còn phải tập trung nâng cao
chất lượng chẩn đoán, điều trị bệnh… Theo đó, từ nay đến năm 2015 thành
phố sẽ huy động vốn xã hội hóa khoảng 1.734 tỷ đồng để hiện đại hóa
trang thiết bị y tế, xây dựng 16 bệnh viện ngoài công lập với 3.350
giường, cấp thêm đất cho 10 bệnh viện tư nhân và hoàn thành quy hoạch
xây dựng 5 cụm bệnh viện liên hoàn (cụm phía Đông thuộc huyện Gia Lâm,
cụm phía Tây thuộc khu vực Phúc Thọ và Sơn Tây, cụm phía Nam thuộc huyện
Thường Tín, cụm phía Tây Nam thuộc huyện Chương Mỹ và cụm phía Bắc
thuộc khu vực Sóc Sơn, Mê Linh). Chú trọng phát triển nguồn nhân lực cân
đối, hợp lý, bảo đảm đạt các chỉ tiêu cơ bản như: Có hơn 15 bác
sĩ/10.000 dân, 3 đến 3,5 điều dưỡng hộ sinh/1 bác sĩ.
Trong
vài năm trở lại đây, đầu tư xã hội hóa y tế ở thành phố phát triển mạnh
trong lĩnh vực trang thiết bị y tế, xây dựng các phòng khám theo nhu
cầu, phòng khám ngoài giờ, các khu y tế kỹ thuật cao. Nhiều đề án xã hội
hóa thu hút vốn đầu tư trang bị máy móc kỹ thuật cao đã được thực hiện
trong các bệnh viện công như: Đề án MRI, Hệ thống phẫu thuật Phaco của
Bệnh viện Xanh pôn, Đề án xã hội hóa Bệnh viện Tim, Đề án đầu tư hệ
thống xạ trị gia tốc của Bệnh viện Ung bứu, Đề án tăng cường nhân lực
Bệnh viện đa khoa Thanh Trì, các Đề án xã hội hóa Phòng khám 21 Phan Chu
Trinh và phòng khám 107 Tôn Đức Thắng… Hệ thống cơ sở y tế ngoài công
lập phát triển khá nhanh. Như đã nêu trên, có 5.728 cơ sở y tế, trong đó
có 13 bệnh viện tư nhân. Hệ thống này đã đảm nhận 30% tổng số hoạt động
khám, chữa bệnh thông thường, chia sẽ không ít cho hệ thống công lập.
Công tác xã hội hóa y tế của thành phố phát triển như hiện nay được đánh
giá là đáng khích lệ. Nó đã tạo ra được cơ chế cạnh tranh buộc các cơ
sở khám, chữa bệnh phải thay đổi chiến lược, nâng cao chất lượng phục
vụ. Người dân, trong đó cả người nghèo, trẻ em, đối tượng chính sách đã
có điều kiện tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ y tế, một số đã được sử
dụng dịch vụ kỹ thuật cao.
Tuy nhiên,
đẩy mạnh xã hội hóa y tế đang gặp phải không ít khó khăn. UBND thành
phố Hà Nội cho biết quỹ đất sạch giành cho các dự án gọi đầu tư xã hội
hóa y tế còn hạn hẹp. Các chính sách, cơ chế quản lý việc huy động đầu
tư còn thiếu, không quy định rõ ràng, quyền lợi, trách nhiệm của nhà đầu
tư, của bệnh viện. Thủ tục để xây dựng các bệnh viện ngoài công lập
phải qua nhiều khâu do vậy chưa huy động được nguồn vốn để xây dựng được
các bệnh viện ngoài công lập quy mô lớn, mà chỉ có những dự án bệnh
viện quy mô nhỏ (dưới 100 giường và chủ yếu là cải tạo sửa chữa công
trình nhà ở trong các khu dân cư.
Giải
pháp mà thành phố đề ra nhằm khắc phục những vướng mắc là tích cực cải
cách thủ tục hành chính, hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật về xã hội
hóa công tác y tế. Tăng cường đầu tư, hỗ trợ nguồn lực cho y tế như: Có
chính sách khuyến khích huy động nguồn lực đầu tư cho y tế. Tạo quỹ đất
sạch và công khai hóa các địa điểm xây dựng cơ sở ngoài công lập để thu
hút đầu tư. Thành phố sẽ tiếp tục hỗ trợ kinh phí hiện đại hóa trang
thiết bị y tế cho bệnh viện công giai đoạn 2010-2015 là 400 tỉ đồng và
hỗ trợ kinh phí giải phóng mặt bằng cho các bệnh viện tư nhân đến năm
2015 là 450 tỷ đồng. Có chính sách khuyến khích thành lập trường đại
học, cao đẳng y tế tư nhân để gia tăng nguồn nhân lực phục vụ ngành y…
Kết nghĩa, chia sẻ kinh nghiệm để cùng phát triển
(08:59 12/03/2013)
HNP
- Phong trào Đoàn ở các huyện ngoại thành Hà Nội mấy năm gần đây có
nhiều khởi sắc. Ngoài sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ Đoàn cơ sở, một phần
kết quả đó được ghi nhận qua Chương trình 06 của Ban Thường vụ Thành
đoàn Hà Nội về việc “tổ chức các hoạt động kết nghĩa và hỗ trợ giữa các
cơ sở Đoàn, Hội, Đội trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Sau hợp
nhất (năm 2008), Thành đoàn Hà Nội đã tiến hành các đợt khảo sát, nắm
bắt tình hình công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi trên địa bàn
tỉnh Hà Tây (cũ), huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã của Lương Sơn - Hòa
Bình. Qua đợt khảo sát, nhận thấy công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi
trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội khó khăn, phong trào chỉ trọng
tâm ở các đợt cao điểm Tháng thanh niên và dịp hè, vai trò tổ chức Đoàn
mờ nhạt. Năm 2009, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã xây dựng chương
trình 06 về việc “tổ chức các hoạt động kết nghĩa và hỗ trợ giữa các cơ
sở Đoàn, Hội, Đội trên địa bàn thành phố Hà Nội”. Nghĩa là các cơ sở
Đoàn khối quận, khối trường học (mạnh về nguồn lực) kết nghĩa với một
đơn vị khối huyện. Ngoài hỗ trợ hoạt động phong trào, tổ chức nghĩa tình
từ thiện, các cơ sở Đoàn còn chia sẻ kinh nghiệm trong cách thức thu
hút, tập hợp đoàn kết thanh niên; tổ chức sân chơi cho giới trẻ và cả
chuyện cách thức tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp để tăng cường
hỗ trợ cho phong trào Đoàn.
Quận đoàn Đống Đa với Huyện đoàn Thanh Oai đã kết nghĩa, tổ chức nhiều hoạt động phong trào cơ sở, được cấp, chính quyền và nhân dân ghi nhận, nổi bật là công tác xã hội, từ thiện. Trong 4 năm qua, Quận đoàn Đống Đa đã xã hội hóa, huy động đoàn viên, thanh niên đóng góp hơn 300 triệu đồng để thực hiện chương trình phối hợp khám bệnh, cấp thuốc miễn phí, tặng quà cho gia đình chính sách, trẻ em nghèo trên địa bàn huyện Thanh Oai. Ngoài ra, hai đơn vị còn tổ chức hơn 20 buổi giao lưu, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trong công tác Đoàn, Hội, Đội, qua đó nâng cao chất lượng hoạt động chỉ đạo phong trào cơ sở trên địa bàn huyện. Quận đoàn Hoàng Mai được giao kết nghĩa với Huyện đoàn Phú Xuyên. Ngoài dành hơn 200 triệu đồng cho công tác xã hội, từ thiện ở địa phương, Quận đoàn Hoàng Mai còn thành lập đội thanh niên tình nguyện “Khăn hồng tình nguyện” là giáo viên tổng phụ trách cùng giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và phụ trách các nội dung hoạt động thiếu nhi hè tại trường Tiểu học, THCS xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên. Đội đã huy động nguồn lực tặng 6 bộ trống Đội và 100 suất quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn ở hai ngôi trường này. Vào dịp hè hàng năm, Quận đoàn Hoàng Mai còn tổ chức các đoàn thanh niên tình nguyện về địa bàn huyện Phú Xuyên tham gia bảo vệ môi trường, xóa các điểm đen về rác, làm sạch kênh mương, ao hồ, tu sửa đường giao thông liên thôn. Bí thư Quận đoàn Hoàng Mai Nguyễn Ngọc Việt cho biết, sáng kiến của Ban thường vụ Thành đoàn Hà Nội về chương trình kết nghĩa giữa các cơ sở thực sự hiệu quả. Ngoài khẳng định thêm vị trí, vai trò và tinh thần xung kích của cán bộ, đoàn viên, thanh niên, còn nâng cao tinh thần giáo dục ý thức trách nhiệm chia sẻ với cộng đồng cho thanh, thiếu nhi cơ sở; đồng thời khơi gợi sự quan tâm, ủng hộ và đồng hành của các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị xã hội với hoạt động Đoàn thanh niên
Tính đến hết năm 2012, chương trình 06 về việc “tổ chức các hoạt động kết nghĩa và hỗ trợ giữa các cơ sở Đoàn, Hội, Đội trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã huy động nguồn lực được hơn 5 tỷ đồng hỗ trợ các phong trào, hoạt động tại các huyện ngoại thành Hà Nội. Tiếp tục hướng hoạt động trọng tâm về cơ sở, tháng 1/2013, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã tổ chức cho các cơ sở Đoàn ký kết thực hiện công tác này giai đoạn 2013-2017. Ngoài duy trì các nội dung của Chương trình 06, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội chỉ đạo các cơ sở Đoàn khối quận, trường học chú trọng hỗ trợ các huyện ngoại thành thực hiện phong trào “Tuổi trẻ Thủ đô chung tay xây dựng nông thôn mới”. Trong đó, hoạt động thường xuyên là đưa các đội hình thanh niên tình nguyện tham gia bảo vệ môi trường, làm sạch kênh, mương, ao hồ, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho thanh niên nông thôn. Các cơ sở Đoàn khối trường thành lập đội “Khăn hồng tình nguyện” hỗ trợ hoạt động tại các nhà văn hóa thiếu nhi cấp huyện, tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Phó Bí thư Thành đoàn Hà Nội Nguyễn Khánh Bình cho biết, ngoài duy trì các đơn vị kết nghĩa như chương trình 06, Thành đoàn Hà Nội còn thành lập các nhóm liên kết, tổ chức hoạt động tình nguyện thường xuyên tại 12 huyện (Ba Vì, Mỹ Đức, Thanh Oai, Ứng Hoà, Chương Mỹ, Phúc Thọ, Phú Xuyên, Quốc Oai, Sóc Sơn, Mê Linh, Thạch Thất, Hoài Đức) để hoạt động sâu hơn tại cơ sở. Thành phần nhóm liên kết gồm các khối quận, huyện, trường đại học, cao đẳng, công nhân viên chức. Các hoạt động tình nguyện tại các địa bàn dân cư sẽ tập trung vào đối tượng thanh thiếu nhi, các gia đình chính sách và người già neo đơn, không nơi nương tựa. Đặc biệt, các cơ sở Đoàn được giao nhiệm vụ hỗ trợ các huyện ngoại thành Hà Nội chú trọng vào mô hình “Chi đoàn nông thôn mới”.
Quận đoàn Đống Đa với Huyện đoàn Thanh Oai đã kết nghĩa, tổ chức nhiều hoạt động phong trào cơ sở, được cấp, chính quyền và nhân dân ghi nhận, nổi bật là công tác xã hội, từ thiện. Trong 4 năm qua, Quận đoàn Đống Đa đã xã hội hóa, huy động đoàn viên, thanh niên đóng góp hơn 300 triệu đồng để thực hiện chương trình phối hợp khám bệnh, cấp thuốc miễn phí, tặng quà cho gia đình chính sách, trẻ em nghèo trên địa bàn huyện Thanh Oai. Ngoài ra, hai đơn vị còn tổ chức hơn 20 buổi giao lưu, gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trong công tác Đoàn, Hội, Đội, qua đó nâng cao chất lượng hoạt động chỉ đạo phong trào cơ sở trên địa bàn huyện. Quận đoàn Hoàng Mai được giao kết nghĩa với Huyện đoàn Phú Xuyên. Ngoài dành hơn 200 triệu đồng cho công tác xã hội, từ thiện ở địa phương, Quận đoàn Hoàng Mai còn thành lập đội thanh niên tình nguyện “Khăn hồng tình nguyện” là giáo viên tổng phụ trách cùng giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và phụ trách các nội dung hoạt động thiếu nhi hè tại trường Tiểu học, THCS xã Phú Túc, huyện Phú Xuyên. Đội đã huy động nguồn lực tặng 6 bộ trống Đội và 100 suất quà cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn ở hai ngôi trường này. Vào dịp hè hàng năm, Quận đoàn Hoàng Mai còn tổ chức các đoàn thanh niên tình nguyện về địa bàn huyện Phú Xuyên tham gia bảo vệ môi trường, xóa các điểm đen về rác, làm sạch kênh mương, ao hồ, tu sửa đường giao thông liên thôn. Bí thư Quận đoàn Hoàng Mai Nguyễn Ngọc Việt cho biết, sáng kiến của Ban thường vụ Thành đoàn Hà Nội về chương trình kết nghĩa giữa các cơ sở thực sự hiệu quả. Ngoài khẳng định thêm vị trí, vai trò và tinh thần xung kích của cán bộ, đoàn viên, thanh niên, còn nâng cao tinh thần giáo dục ý thức trách nhiệm chia sẻ với cộng đồng cho thanh, thiếu nhi cơ sở; đồng thời khơi gợi sự quan tâm, ủng hộ và đồng hành của các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị xã hội với hoạt động Đoàn thanh niên
Tính đến hết năm 2012, chương trình 06 về việc “tổ chức các hoạt động kết nghĩa và hỗ trợ giữa các cơ sở Đoàn, Hội, Đội trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã huy động nguồn lực được hơn 5 tỷ đồng hỗ trợ các phong trào, hoạt động tại các huyện ngoại thành Hà Nội. Tiếp tục hướng hoạt động trọng tâm về cơ sở, tháng 1/2013, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội đã tổ chức cho các cơ sở Đoàn ký kết thực hiện công tác này giai đoạn 2013-2017. Ngoài duy trì các nội dung của Chương trình 06, Ban Thường vụ Thành đoàn Hà Nội chỉ đạo các cơ sở Đoàn khối quận, trường học chú trọng hỗ trợ các huyện ngoại thành thực hiện phong trào “Tuổi trẻ Thủ đô chung tay xây dựng nông thôn mới”. Trong đó, hoạt động thường xuyên là đưa các đội hình thanh niên tình nguyện tham gia bảo vệ môi trường, làm sạch kênh, mương, ao hồ, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho thanh niên nông thôn. Các cơ sở Đoàn khối trường thành lập đội “Khăn hồng tình nguyện” hỗ trợ hoạt động tại các nhà văn hóa thiếu nhi cấp huyện, tổ chức các hoạt động vui chơi, rèn kỹ năng sống cho thiếu nhi.
Phó Bí thư Thành đoàn Hà Nội Nguyễn Khánh Bình cho biết, ngoài duy trì các đơn vị kết nghĩa như chương trình 06, Thành đoàn Hà Nội còn thành lập các nhóm liên kết, tổ chức hoạt động tình nguyện thường xuyên tại 12 huyện (Ba Vì, Mỹ Đức, Thanh Oai, Ứng Hoà, Chương Mỹ, Phúc Thọ, Phú Xuyên, Quốc Oai, Sóc Sơn, Mê Linh, Thạch Thất, Hoài Đức) để hoạt động sâu hơn tại cơ sở. Thành phần nhóm liên kết gồm các khối quận, huyện, trường đại học, cao đẳng, công nhân viên chức. Các hoạt động tình nguyện tại các địa bàn dân cư sẽ tập trung vào đối tượng thanh thiếu nhi, các gia đình chính sách và người già neo đơn, không nơi nương tựa. Đặc biệt, các cơ sở Đoàn được giao nhiệm vụ hỗ trợ các huyện ngoại thành Hà Nội chú trọng vào mô hình “Chi đoàn nông thôn mới”.
Hà Vy
Gặp mặt chiến sỹ cách mạng Hà Nội bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc
(14:59 11/03/2013)
HNP
- Sáng 11/3, tại Cung văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Ban Liên lạc các chiến
sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc đã tổ chức buổi gặp
mặt nhân kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng trở về. Tới dự buổi gặp mặt có
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và đồng chí Phạm Thế Duyệt, nguyên Ủy viên
Bộ Chính trị. Về phía TP Hà Nội có đồng chí Nguyễn Huy Tưởng, Phó Chủ
tịch UBND TP và đồng chí Hồ Quang Lợi, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy
cùng hơn một nghìn chiến sỹ cách mạng, thân nhân của các chiến sỹ cách
mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu tại buổi gặp mặt |
Tại buổi
gặp mặt, các đại biểu đã cùng nhau ôn lại những năm tháng đấu tranh bất
khuất trong nhà lao. Hệ thống "Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam - Phú
Quốc" (1967-1973) giam giữ trên 40 nghìn lượt tù binh, là những chiến
sỹ thuộc lực lượng vũ trang và cán bộ dân - chính - đảng đã từng hoạt
động và chiến đấu ở các chiến trường trên khắp cả nước. Trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, có biết bao người đã hi
sinh anh dũng, nhiều người bị địch bắt, giam cầm trong những nhà đá, bị
đánh đập dã man như dùng que sắt nung đỏ xuyên vào bắp thịt, bẻ răng,
rút móng tay, nhốt "Chuồng cọp"… Bên cạnh những đòn tra tấn về thể xác,
các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc còn phải
chống lại những thủ đoạn chiến tranh tâm lý, những phương thức chiêu hồi
của địch. Với trí sáng tạo, tinh thần lạc quan cách mạng, họ đã biến
nhà tù thành trường học chính trị, trường học văn hóa và học nghề, các
tổ chức Đảng, đoàn thể trong nhà tù từng bước được hình thành, giúp họ
đoàn kết cùng sống để tiếp tục chiến đấu. Nhiều người trong số đó còn tổ
chức vượt ngục bằng nhiều hình thức như cải trang thành quân cảnh, đào
hầm… để thoát khỏi trại giam của kẻ thù, trở về với cách mạng và tiếp
tục chiến đấu.
Sau khi Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết cũng là lúc chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc được trở về với vòng tay yêu thương, chào đón của đồng bào, đồng chí. Ngày trở về đã trở thành ký ức không thể nào quên của những tù binh cộng sản. Những tù binh cộng sản tại nhà tù Phú Quốc đã đấu tranh để yêu cầu địch không cắm cờ của Việt Nam cộng hòa, cờ Mỹ trên xe trao trả tù binh; không xáo trộn, di chuyển tù trước khi trao trả; trong tù mặc thế nào, ra tù mặc như thế, không chấp nhận những thứ quần áo mà chỉ huy trại giam cấp… Và khi trở về với đồng chí, đồng đội, được nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, họ đã không cầm được nước mắt hạnh phúc, cùng nhau hát vang bài ca "Giải phóng miền Nam"…
Sau khi Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết cũng là lúc chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc được trở về với vòng tay yêu thương, chào đón của đồng bào, đồng chí. Ngày trở về đã trở thành ký ức không thể nào quên của những tù binh cộng sản. Những tù binh cộng sản tại nhà tù Phú Quốc đã đấu tranh để yêu cầu địch không cắm cờ của Việt Nam cộng hòa, cờ Mỹ trên xe trao trả tù binh; không xáo trộn, di chuyển tù trước khi trao trả; trong tù mặc thế nào, ra tù mặc như thế, không chấp nhận những thứ quần áo mà chỉ huy trại giam cấp… Và khi trở về với đồng chí, đồng đội, được nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, họ đã không cầm được nước mắt hạnh phúc, cùng nhau hát vang bài ca "Giải phóng miền Nam"…
Các đại biểu tham dự buổi gặp mặt |
Trong số 1.300 chiến sỹ cách mạng Hà Nội bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc, hiện có gần 600 thương, bệnh binh; 120 người nhiễm chất độc da cam, nhiều người phải hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên. Trở về quê hương sau chiến tranh, nhiều chiến sĩ bị địch bắt tù đày thân thể không còn lành lặn, nhưng phát huy bản chất Bộ đội Cụ Hồ, họ vẫn nỗ lực vươn lên làm giàu cho bản thân và gia đình, xã hội, giúp đỡ đồng đội cũ. Hiện, hàng trăm người trong số họ tham gia hoạt động ở cơ sở như làm bí thư chi bộ, tổ trưởng tổ dân phố… một số làm kinh tế trong các hợp tác xã, công ty, trang trại…
Tại buổi gặp mặt, thay mặt lãnh đạo Thành phố, Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Huy Tưởng bày tỏ sự khâm phục và biết ơn đối với những cống hiến, hi sinh to lớn của các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc. Phát huy những truyền thống quý báu đó, Phó Chủ tịch đề nghị Ban Tuyên giáo Thành ủy có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân Thủ đô, nhất là thế hệ trẻ về ý nghĩa, giá trị, tinh thần kiên trung, bất khuất của các thế hệ chiến sỹ cách mạng, chiến sỹ cộng sản bị địch bắt, giam cầm trong các nhà tù, trong đó có trại giam tù binh Phú Quốc; học tập và noi theo những tấm gương của các chiến sỹ cách mạng, để từ đó đoàn kết, tận tâm tận lực, chủ động sáng tạo vượt qua khó khăn, thách thức, góp phần xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.
Phó Chủ tịch UBND TP Nguyễn Huy Tưởng phát biểu tại buổi gặp mặt |
Chia sẻ với các đồng chí, đồng đội của mình, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang cho rằng, mỗi chiến sỹ cách mạng khi chiến đấu trên chiến trường đều rất anh dũng, kiên cường, nhưng khi sa vào tay giặc vẫn tiếp tục đấu tranh bất khuất, chống lại những đòn tra tấn dã man, những luận điệu chiêu hồi để giữ vững khí tiết cách mạng, giữ trọn niềm tin với Đảng, với cách mạng… đó cũng là những chiến thắng rất đáng tự hào. Chủ tịch nước mong muốn, là những người gắn bó máu thịt với chế độ, với Đảng, các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày tại nhà tù Phú Quốc tiếp tục có nhiều đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, cho công tác xây dựng Đảng, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.
Trọng Toàn
Hà Nội
Bài viết này nói về Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam. Đối với các nội dung khác lấy tên Hà Nội, xem Hà Nội (định hướng). Đối với các nội dung khác lấy tên Đông Đô, xem Đông Đô.
Hà Nội
|
||
---|---|---|
Thành phố trực thuộc trung ương | ||
Cầu Long Biên · Bến Đục chùa Hương · Tháp Rùa · Khuê Văn Các · Lăng Hồ Chí Minh · Nhà hát Lớn |
||
Địa lý | ||
Tọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″Đ | ||
Diện tích | 3328,9 km² [1] | |
Dân số 2011 | ||
Tổng cộng | 6.699.600[1] | |
Mật độ | 2013 người/km² | |
Dân tộc | người Kinh (99,1%) | |
Múi giờ | G (UTC+7) | |
|
||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Bắc Bộ | |
Thành lập | 1010 - Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long | |
Tên khác | Tống Bình, Đại La, Long Đỗ, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh, Thăng Long |
|
Chính quyền | ||
Chủ tịch UBND | Nguyễn Thế Thảo | |
Chủ tịch HĐND | Ngô Thị Doãn Thanh | |
Bí thư Thành ủy | Phạm Quang Nghị | |
Trụ sở UBND | phố Đinh Tiên Hoàng, phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm |
|
Đại biểu quốc hội | 30 | |
Phân chia hành chính |
|
|
Mã hành chính | VN-64 | |
Mã bưu chính | 10 | |
Mã điện thoại | 4 | |
Biển số xe | 29, 30, 31, 32, 33, 40 | |
Tọa độ: 21°01′42″B 105°51′12″Đ
Hà Nội là thủ đô,[2] là thành phố đứng thứ hai Việt Nam về diện tích đô thị sau thành phố Hồ Chí Minh, nó cũng đứng thứ hai về dân số với 6.561.900 người (2010). Nằm giữa[3] đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch
lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà Nội là thủ đô của miền Bắc rồi
nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay có diện tích 3.345,0 km², gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng, Hà Nội là một trong bốn trung tâm kinh tế hàng đầu của cả quốc gia. Năm 2009, sau khi mở rộng, GDP của thành phố tăng khoảng 6,67%, tổng thu ngân sách khoảng 70.054 tỷ đồng.[4]
Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục với các nhà hát, bảo
tàng, các làng nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông cấp quốc
gia và các trường đại học lớn.
Mục lục
|
Địa lý
Vị trí, địa hình
Ảnh chụp vệ tinh khu vực Hà Nội
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km.[5][6] Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng, nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.[6]
Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển.[7] Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức,
với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1.281 m), Gia Dê (707 m), Chân Chim
(462 m), Thanh Lanh (427 m), Thiên Trù (378 m)... Khu vực nội thành có
một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.[6]
Thủ đô Hà Nội có bốn điểm cực là:
- Cực Bắc là xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn.
- Cực Tây là xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
- Cực Nam là xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức.
- Cực Đông là xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm.
Thủy văn
Wikimedia Commons có thêm thể loại hình ảnh và tài liệu về: Bản đồ Hà Nội. |
Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên.
Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba
chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có Sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với dòng sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ,... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu,... là những đường tiêu thoát nước thải của Hà Nội.[6]
Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự (xem ảnh). Hồ Gươm
nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ
một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới
những hồ nổi tiếng khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra,
còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Kim Liên, Liên Đàm,
Ngải Sơn - Đồng Mô, Suối Hai, Mèo Gù, Xuân Khanh, Tuy Lai, Quan Sơn,...[6]
Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 150.000 m³. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét
trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng
nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc
hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát
nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này.[8]
Khí hậu
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa về đầu mùa và có mưa phùn về nửa cuối mùa. Nằm về phía bắc của vành đai nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa
khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí
hậu Hà Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng
kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng 11 tới tháng 3
năm sau là mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C. Trong khoảng thời
gian này số ngày nắng của thành phố xuống rất thấp, bầu trời thường
xuyên bị che phủ bởi mây và sương, tháng 2 trung bình mỗi ngày chỉ có
1,8 giờ mặt trời chiếu sáng. Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 (mùa xuân) và tháng 10 (mùa thu), thành phố có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu và đông.[9]
Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C.[5]
Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất thường. Đầu tháng 11 năm 2008, một trận mưa kỷ lục đổ xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung khiến 18 cư dân Hà Nội thiệt mạng và gây thiệt hại cho thành phố khoảng 3.000 tỷ đồng.[10][11]
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Cao kỷ lục °C (°F) | 33.2 (92) | 33.9 (93) | 36.8 (98) | 39.1 (102) | 42.8 (109) | 39.9 (104) | 40.3 (105) | 36.8 (98) | 37.8 (100) | 36.4 (98) | 36.3 (97) | 36.5 (98) | 42,8 (109) |
Trung bình tối cao °C (°F) | 19.3 (67) | 19.9 (68) | 22.8 (73) | 27.0 (81) | 31.5 (89) | 32.6 (91) | 32.9 (91) | 31.9 (89) | 30.9 (88) | 28.6 (83) | 24.3 (76) | 21.8 (71) | 26,9 (80) |
Trung bình tối thấp °C (°F) | 13.6 (56) | 15.0 (59) | 18.1 (65) | 21.4 (71) | 24.3 (76) | 25.8 (78) | 26.1 (79) | 25.7 (78) | 24.7 (76) | 21.9 (71) | 18.5 (65) | 15.3 (60) | 20,8 (69) |
Thấp kỷ lục °C (°F) | 2.7 (37) | 6.1 (43) | 7.2 (45) | 9.9 (50) | 15.6 (60) | 21.1 (70) | 21.9 (71) | 20.7 (69) | 16.6 (62) | 14.1 (57) | 7.3 (45) | 5.4 (42) | 2,7 (37) |
Lượng mưa mm (inch) | 18.6 (0.7) | 26.2 (1) | 43.8 (1.7) | 90.1 (3.5) | 188.5 (7.4) | 239.9 (9.4) | 288.2 (11.3) | 318.0 (12.5) | 265.4 (10.4) | 130.7 (5.1) | 43.4 (1.7) | 23.4 (0.9) | 1.676,2 (66) |
Nguồn: Tổ chức Khí tượng Thế giới (LHQ) [12] 24 tháng 6 năm 2010.
Dân cư
Nguồn gốc dân cư
Vào thập niên 1940, khi Hà Nội là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người.[13] Nhưng đến năm 1954, dân số Hà Nội giảm xuống chỉ còn 53 nghìn dân trên một diện tích 152 km². Có thể nhận thấy một phần rất lớn trong số những cư dân đang sống ở Hà Nội hiện nay không sinh ra tại thành phố này. Lịch sử của Hà Nội
cũng đã ghi nhận dân cư của thành phố có những thay đổi, xáo trộn liên
tục qua thời gian. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân
sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ 15, 16.
Nhưng trong nội ô, khu vực của các phường thương nghiệp và thủ công,
dân cư xáo trộn rất nhiều. Còn lại rất hiếm những dòng họ đã định cư
liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác (Trung Tự - Hà Nội).[14]
Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi
trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời
điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia
đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia
quyến, đôi khi cả họ hàng.[15]
Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ 15, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long. Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi,
trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có hẳn một phường
người Hoa, là phường Đường Nhân. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra
liên tục và kéo dài cho tới ngày nay.[15]
Dân số
Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa thế kỷ gần đây. Vào thời điểm năm 1954, khi quân đội Việt Minh tiếp quản Hà Nội, thành phố có 53 nghìn dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố được mở rộng, diện tích lên tới 584 km², dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người.[16] Tới năm 1991,
địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở
mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, cùng việc các khu
vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số
2.672.122 người vào năm 1999.[17][18][19] Sau đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có 6,233 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới.[20] Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số Hà Nội là 6.451.909 người,[21] dân số trung bình năm 2010 là 6.561.900 người .[22]
Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 1.979 người/km². Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới 35.341 người/km², trong khi đó, ở những huyện như ngoại thành như Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ dưới 1.000 người/km².
Về cơ cấu dân số, theo số liệu 1 tháng 4 năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày chiếm 0,9%.[6] Năm 2009, người Kinh chiếm 98,73% dân số, người Mường 0,76% và người Tày chiếm 0,23 %[21].
Năm 2009, dân số thành thị là 2.632.087 chiếm 41,1%, và 3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1%.[22]
Lịch sử
Thời kỳ tiền Thăng Long
Mặt tiền Hoàng thành Thăng Long năm 2009
Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn.[23]
Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và
chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ 3 trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh,
cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi
dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và
xã hội.[23]
Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ 2 trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình.[24] Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Tống Bình là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền
xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành Đại La – thủ
phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy
một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.[25] Thế kỷ 10, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt.[23]
Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh
Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là Thăng Long. Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây
với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của
đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ 10, nhiều công trình tôn giáo
nhanh chóng được xây dựng, chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076... Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia.[26]
Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, kinh thành Thăng Long
tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm
những cung điện mới. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường,
kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng
ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu, Chu Văn An... Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt.[27] Cuối thế kỷ 14, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần chuyển kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành Đông Đô. Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành Đông Quan. Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428.[28]
Đền Ngọc Sơn, 1884
Phố hàng Mắm, khoảng năm 1902
Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành Đông Kinh,
đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời
nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2
huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng
đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ
của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương
của nhà Lê.[29] Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh,
Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời
kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng
thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực
thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương,
đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân
tới sinh sống. Câu ca Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là Kẻ Chợ. Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà.[30]
Người Hà Nội, 1884
Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Huế, Thăng Long trở thành thủ phủ của Bắc Thành, tức Bắc Bộ ngày nay.[31]
Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc
Biểu trưng Hà Nội giai đoạn Liên bang Đông Dương và Quốc gia Việt Nam
Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên
ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia
Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu
vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng,
Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành
chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh Hà Nội.[32] Với hàm nghĩa nằm trong sông, tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy.[33][34] Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ 19 cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân...[32]
Rue Paul Bert (nay là Phố Tràng Tiền) và Nhà Hát Lớn thời Pháp thuộc
Đấu xảo tại Hà Nội năm 1902
Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, Tự Đức ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa.[35]
Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh
thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ
bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực Phố Huế, Đại Cồ Việt, Khâm Thiên, Giảng Võ, Đường Thụy Khuê, Hồ Tây đến cầu Long Biên. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam.
Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương.[16]
Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy
thành thời Nguyễn dần bị triệt hạ, đến năm 1897 hầu như bị phá hủy hoàn
toàn,[36] chỉ còn lại Cột Cờ,
Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong
hoàng thành cũ. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện,
Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, Cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng
trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua
ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông
dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng
những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm,
hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày
một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất
hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới.[35] Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa.[16]
Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng
thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt
Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành
thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu.
Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả
quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng.
Trong hai cuộc chiến tranh
Giữa thế kỷ 20, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Thế chiến thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội.
Hà Nội, Tết dương lịch 1973
Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp những người Việt Minh lấy lại miền Bắc Việt Nam,
Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào
thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố,
37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên
1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và
địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu
phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội
cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sát nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên.[37][38] Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập.[16]
Khi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc,[39][40] số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người.[41] Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận.
Hà Nội đương đại
Biểu trưng Hà Nội hiện nay
Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người.[42]
Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng
thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu
tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới.[43] Năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phú.[44] Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km².
Sau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa.
Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội ô và các trung tâm công nghiệp cũng
được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo
những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường
xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình
trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân
cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào
năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người.[45]
Phố Văn Cao nhìn từ trên đường Hoàng Hoa Thám
Hà Nội đang xây dựng, 2004
Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô
thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào
đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là
một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa
các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có
được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu.[46] Ngoài ra, hiện Hà Nội là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực châu Á và là thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, hàm lượng bụi ở đây cao gấp nhiều lần mức cho phép[47] Ngày 29 tháng 5 năm 2008,
với gần 93% đại biểu tán thành, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị
quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu
lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình
được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng
3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân
số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới.[20] Ngày 11 tháng 12 năm 2008, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình... đã được khánh thành. Năm 2010 Hà Nội cũng đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Hà Nội đã tổ chức thành công đại hội Đảng bộ lần thứ 15 với mục tiêu tới năm 2015 phát triển thành thành phố công nghiệp
theo hướng hiện đại, trung tâm hành chính chính trị quốc gia, trung tâm
lớn về kinh tế và giao lưu quốc tế, trung tâm văn hóa giáo dục y tế
của cả Việt Nam. Thành phố phấn đấu GDP bình quân đầu người đạt 4.300
Đô la Mỹ vào năm 2015. Tính tới ngày 30 tháng 10 năm 2010, dân số toàn
thành phố là 6,913 triệu người (tổng kiểm tra hộ khẩu trên địa bàn)[48]
Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" vào ngày 17 tháng 6 năm 1999. Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu "Thủ đô anh hùng" vào ngày 4 tháng 10.[49]
Kiến trúc và quy hoạch đô thị
Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được
kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát
triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống
trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các
khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín
dây... nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050.[50]
Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu
phố cũ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch.
Hình ảnh Hà Nội
Khu phố cổ
Phố Thuốc Bắc trong khu phố cổ
Chùa Một Cột, một công trình cổ hiện nằm trong khu phố Pháp
Khu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ.
Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán
tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái
tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng...
Tất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống,
mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang
phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau:
gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để
lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ.[51] Những năm gần đây, mật độ dân số
cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở
đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy
hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong
một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng
trên nóc một nhà vệ sinh chung.[52]
Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà
cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện.[53]
Khu thành cổ
Khu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm,
xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây
dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu
lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Ðình Phùng hiện nay còn cửa Bắc
của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm
1812 hiện nằm trên đường Ðiện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm
ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn
ốc dẫn lên kỳ đài.[54] Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ 11. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An
– và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam –
công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều
hoạt động văn hóa.
Ngày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO
đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản
văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính
liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng
di tích di vật đa dạng, phong phú.[55] Sáng 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội.[56]
Khu phố Pháp
Nhà thờ Lớn Hà Nội
Năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố.
Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch
thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi
với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa.[53]
Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng
địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố
cũ, hay khu phố Pháp.
Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch
Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện
nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893.[57]
Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện
Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây
rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền
Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc
tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền
và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan
Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy
trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công
trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris.[58]
Kiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày
nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi
nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh
đó, nhiều thửa đất được sát nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan
bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sác tiêu
biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi
các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp
đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này.[59]
Kiến trúc hiện đại
Keangnam Hanoi Landmark Tower, toà nhà cao nhất Việt Nam đã hoàn thành và đi vào hoạt động
Vào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng.[53]
Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà
tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung
quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể lắp ghép đang dần được thay thể bởi các chung cư mới.
Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... cũng dần xuất hiện.[60] Khoảng thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình
được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc
lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công
năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công
cộng.[53] Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập.
Cùng với dự phát triển, đo thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 43[61] và năm 2012 là 34 đường, phố mới.[62]
Khoảng thời gian 2010 - 2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây
dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung
tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều.[63]
Các công trình nổi bật
Lăng Hồ Chí Minh, công trình được xây dựng vào thập niên 1970, trên Quảng trường Ba Đình
Trước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ 5 với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng.[64] Theo văn bia, từ giữa thế kỷ 6, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay.[65] Đến thế kỷ 11,
với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc
giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh
mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó
một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa nổi tiếng
như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ 12, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ 17. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ 19.[66] Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích.
Vùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây Nam, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm.[67]
Cùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn.. Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Cơ Đốc giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long...
Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc
thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông
đúc, thiếu không gian.[68]
Thời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole...
Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay
thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ
được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này.
Hai thập niên gần đây, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều
cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà
Nội... mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng
chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Hà Nội City Complex, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội.
Hành chính
Bản đồ Hành chính Hà Nội năm 2008
Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh còn được xếp vào đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp
trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân
số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh...[69]
Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân
Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan
quyền lực nhà nước ở thành phố. Hội đồng nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm
kỳ 2011–2016, gồm 95 đại biểu, chủ tịch là bà Ngô Thị Doãn Thanh.[70] Ủy ban nhân dân thành phố là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ
và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Ngoài các sở, ban
như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm
báo Hà Nội mới, báo Kinh tế và Đô thị, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội,
Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số
tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân đân và Ủy ban nhân
dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm.[71]
Sau những thay đổi về địa giới và hành chính năm 2008, Hà Nội hiện có 29 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 10 quận, 18 huyện, 1 thị xã – và 577 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 401 xã, 154 phường và 22 thị trấn.
Danh sách các đơn vị hành chính Hà Nội | ||||
---|---|---|---|---|
Mã hành chính | Tên Thị xã/Quận/Huyện | Đơn vị trực thuộc | Diện tích (km²) | Dân số (Điều tra dân số ngày 1/4/2009) |
10 Quận | ||||
1 | Quận Ba Đình | 14 phường | 9,22 | 225.910 |
2 | Quận Hoàn Kiếm | 18 phường | 5,29 | 147.334 |
3 | Quận Tây Hồ | 8 phường | 24 | 130.639 |
4 | Quận Long Biên | 14 phường | 60,38 | 226.913 |
5 | Quận Cầu Giấy | 8 phường | 12,04 | 225.643 |
6 | Quận Đống Đa | 21 phường | 9,96 | 370.117 |
7 | Quận Hai Bà Trưng | 20 phường | 9,6 | 295.726 |
8 | Quận Hoàng Mai | 14 phường | 41,04 | 335.509 |
9 | Quận Thanh Xuân | 11 phường | 9,11 | 223.694 |
268 | Quận Hà Đông | 17 phường | 47,91 | 233.136 |
Cộng các Quận | 145 phường | 233,55 | 2.414.721 | |
1 Thị xã | ||||
269 | Thị xã Sơn Tây | 9 phường và 6 xã | 113,47 | 125.749 |
18 Huyện | ||||
271 | Huyện Ba Vì | 30 xã và 1 thị trấn | 428 | 246.120 |
277 | Huyện Chương Mỹ | 30 xã và 2 thị trấn | 232,9 | 286.359 |
273 | Huyện Đan Phượng | 15 xã và 1 thị trấn | 76,8 | 142.480 |
17 | Huyện Đông Anh | 23 xã và 1 thị trấn | 182,3 | 333.337 |
18 | Huyện Gia Lâm | 20 xã và 2 thị trấn | 114 | 229.735 |
274 | Huyện Hoài Đức | 19 xã và 1 thị trấn | 95.3 | 191.106 |
250 | Huyện Mê Linh | 16 xã và 2 thị trấn | 141.26 | 191.490 |
282 | Huyện Mỹ Đức | 21 xã và 1 thị trấn | 230 | 169.999 |
280 | Huyện Phú Xuyên | 26 xã và 2 thị trấn | 171.1 | 181.388 |
272 | Huyện Phúc Thọ | 25 xã và 1 thị trấn | 113,2 | 159.484 |
275 | Huyện Quốc Oai | 20 xã và 1 thị trấn | 147 | 160.190 |
16 | Huyện Sóc Sơn | 25 xã và 1 thị trấn | 306,74 | 282.536 |
276 | Huyện Thạch Thất | 22 xã và 1 thị trấn | 202,5 | 177.545 |
278 | Huyện Thanh Oai | 20 xã và 1 thị trấn | 129,6 | 167.250 |
50 | Huyện Thanh Trì | 15 xã và 1 thị trấn | 68.22 | 198.706 |
279 | Huyện Thường Tín | 28 xã và 1 thị trấn | 127.7 | 219.248 |
19 | Huyện Từ Liêm | 15 xã và 1 thị trấn | 75,32 | 392.558 |
281 | Huyện Ứng Hòa | 28 xã và 1 thị trấn | 183,72 | 182.008 |
Cộng các Huyện | 398 xã và 22 thị trấn | 2.997,68 | 3.911.439 | |
Toàn thành phố | 154 phường, 404 xã và 22 thị trấn | 3.344,7 | 6.451.909 |
Số liệu về dân số trên đây được lấy từ website của Tổng cục Thống kê http://www.gso.gov.vn/
Kinh tế
Chợ Đồng Xuân, một trung tâm buôn bán truyền thống của thành phố
Vị thế trung tâm kinh tế của Hà Nội đã được thiết lập từ rất lâu
trong lịch sử. Tên những con phố như Hàng Bạc, Hàng Đường, Hang Than...
đã minh chứng cho điều này. Tới thế kỷ gần đây, với sự phát triển mạnh
mẽ của Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực Nam Bộ, Hà Nội chỉ còn giữ vị trí quan trọng thứ hai trong nền kinh tế Việt Nam.
Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là 10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ 470 USD
lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu năm
2010, GDP của Hà Nội chiếm 12,73% của cả quốc gia và khoảng 41% so với
toàn vùng Đồng bằng sông Hồng.[72] Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, Hà Nội xếp ở vị trí thứ 36/63 tỉnh thành.[73]
Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp
tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thủy sản từ 9% giảm
xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian
này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập
trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và
công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà... cũng dần phục hồi và phát triển.[72]
Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu.[74] Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án.[75][76]
Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14
khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi
với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội
phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường.[77] Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003,
với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá
trị sản xuất công nghiệp của thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất
công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh
nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân
sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội.[78]
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động.[79]
Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao.
Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng
nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà
Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh
của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của
thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt
cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn.
Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao
và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.[80]
Du lịch
Khách sạn 5 sao Sofitel Metropole nằm trên phố Ngô Quyền, trung tâm thành phố
So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống...
Mặc dù vậy, các thống kê cho thấy du lịch Hà Nội không phải là một
thành phố du lịch hấp dẫn. Với nhiều du khách quốc tế, thành phố chỉ là
điểm chuyển tiếp trên hành trình khám phá Việt Nam của họ. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc,[81] gần bằng một nửa lượng khách của Thành phố Hồ Chí Minh.[82] Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài.[83] Tỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Hàng năm, bảo tàng Dân tộc học
ở Hà Nội, một bảo tàng có tiếng trong khu vực, điểm đến được yêu thích
trong các sách hướng dẫn du lịch nổi tiếng, có 180.000 khách tới thăm,
trong đó một nửa là người nước ngoài.[84]
Theo thống kê năm 2007, Hà Nội có 511 cơ sở lưu trú với hơn 12.700 phòng đang hoạt động. Trong số này chỉ có 178 khách sạn
được xếp hạng với 8.424 phòng. Tình trạng thiếu phòng cao cấp là một
trong những nguyên nhân khiến lượng khách nước ngoài tới Hà Nội không
cao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một
đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5
sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 9 khách sạn 5 sao là
Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao.[85]
Du lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet
cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một
số khách sạn giả danh nổi tiếng và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn.[86]
Giao thông
Phố Láng Hạ, trung tâm Thành phố
Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm
ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội
những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch
vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Đống Đa được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự.[87] Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Ba Vì, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Mỹ Đức. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Lương Yên, Nước Ngầm, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam, quốc lộ 2 đến Hà Giang, quốc lộ 3 đến Cao Bằng; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, quốc lộ 18 đi Quảng Ninh, quốc lộ 6 và quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc. Ngoài ra, Hà Nội còn có các nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như đại lộ Thăng Long, Pháp Vân-Cầu Giẽ, ngoài ra các tuyến cao tốc Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội-Hải Phòng, Nội Bài-Lào Cai, Hà Nội-Thái Nguyên cũng đang trong quá trình xây dựng. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại.
Giao thông tại một ngã tư Hà Nội, 2011
Trong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ
tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn –
đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố.[88]
Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay
chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất
cập, luôn thay đổi tùy tiện.[88][89] Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Học viện Công nghệ Massachusetts
bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành
phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về “hành vi hợp trội”,
phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không
cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp.[90]
Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi
bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát
triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm.[91]
Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và
hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa,
hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia
giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương
tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh,
nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu
là xe máy.
Theo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại.[91] Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Hồ Nghĩa Dũng dự báo tới năm 2015, thành phố Hà Nội sẽ hết tình trạng ùn tắc giao thông.[92]
Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội hiện có 7.365 km đường giao thông, trong
đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng
như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong
đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu.[93] Trong 11 tháng đầu năm 2011, trên địa bàn Hà Nội đã xảy ra 533 vụ tai nạn giao thông đường bộ, đường sắt làm 531 người chết và 144 người bị thương.[93]
Xã hội
Nhà ở
Nhà tập thể với chuồng cọp phổ biến ở Hà Nội
Mặc dù là thủ đô của một quốc gia nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giầu có.[94]
Điều này đã khiến những cư dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập
thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo con số
năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 mét vuông một người.[45] Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở.[95]
Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng 3, 4 thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội. [96]
Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá
vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình
trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm.
Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính.[95]
Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những
bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại bãi An Dương, dải đất giữa sông Hồng
thuộc địa phận Yên Phụ, Từ Liên, Phúc Xá, hàng trăm gia đình sống trong
những ngôi nhà lợp mái tre xây từ nhiều năm trước, không có điện,
không có trường học và không được chăm sóc về y tế.[97]
Việc chia các đất công cũng gây bức xúc dư luận. Như năm 2006, báo
chí đặt vấn đề về "Nhà nước thiệt hại 3.000 tỉ đồng do quyết định duyệt
giá đất của UBND TP Hà Nội" [98]
Y tế
Theo con số của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2011 thì năm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế.[99]
Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng
một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội
569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở TPHCM.[100] Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp.[101]
Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y
sĩ và 3.970 y tá, so với Thành phố Hồ Chí Minh 6.073 bác sĩ, 1.875 y sĩ
và 10.474 y tá.[102] Do sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Nhi Thụy Điển và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải.[103]
Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh
viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố
có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được
triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân.
Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường.[104]
Cũng giống như Thành phố Hồ Chí Minh, điều kiện chăm sóc y tế giữa
nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở
rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể
hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ
trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương
tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng
sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít
khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều
kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước
ao, nước giếng.[105]
Giáo dục
Đại học Y Hà Nội, một trong những đại học đầu tiên của Việt Nam
Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ 15 cho tới cuối thế kỷ 19, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương. Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương, Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam.[106]
Hà Nội ngày nay vẫn là trung tâm giáo dục lớn nhất Việt Nam. Năm
2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186
trường trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh.[107][108][109]
Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một
vài trong số đó nổi tiếng vì chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu
đời, như Trung học Chuyên Hà Nội - Amsterdam, Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Huệ, Trung học Chu Văn An, Trung học Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công.[110] Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là Trường Trung học phổ thông Chuyên Ngoại ngữ thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và Trường Trung học phổ thông Chuyên thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các trường trung học chuyên này là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của toàn Việt Nam. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đạo tạo Việt Nam năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia.[111]
Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng,
đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có
606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên.[112] Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam.
An sinh xã hội
Văn hóa
Thể thao
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình
Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao
lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay
thành phố có bốn câu lạc bộ bóng đá: Hà Nội T&T, CLB BĐ Hà Nội ở V-league, Trẻ Hà Nội và Câu lạc bộ Hà Nội ở giải hạng nhất. CLB BĐ Hà Nội – tiền thân là đội Công an Hà Nội và câu lạc bộ Thể Công – nằm trong số những câu lạc bộ giàu thành tích nhất Việt Nam.
Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nội còn có nhiều đội bóng mạnh như Tổng
cục Đường sắt (thành lập năm 1956), Tổng cục Bưu điện (thành lập năm
1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội,[113] Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội.[114]
Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn
thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003,
các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy
chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy
chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu
quốc gia.[115]
Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%.[116]
Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến
những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu
của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều
trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng
lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp.[117]
Bệnh viện Thể thao Việt Nam- cơ quan đầu ngành về Y học Thể thao tại huyện Từ Liêm
Sau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958,[113] nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi.[118]
Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á năm 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam và các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam một lần nữa bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á sau 49 năm chờ đợi. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I, Sân vận động Cột Cờ... cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác.
Các địa điểm văn hóa, giải trí
Nhà hát Lớn Hà Nội
Theo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng.[119] Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu... cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.
Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số 11 phố Ngô Thì Nhậm quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại 72 Hàng Bạc quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại 51 Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại 164 Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh.[120] Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Hà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng... Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Tổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam.[121] Năm 2009,
tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565
nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư.[122] Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia
tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp
chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam.[123]
Trong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như MegaStar nằm trong tòa tháp Vincom hay Trung tâm chiếu phim quốc gia
số 2 Láng Hạ quận Đống Đa. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 rất
vắng người xem vì chất lượng âm thanh và hình ảnh kém. Fansland, rạp
chiếu phim từng một thời nổi tiếng với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả.[124] Các quán bar, vũ trường
cũng là điểm đến của 1 bộ phận thanh niên Hà Nội. Nhiều vũ trường từng
nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của thành phố, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở 78 Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999.[125]
Nằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp
dẫn của thành phố. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu
vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo
sóng, bể mát xa...[126] Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ. Hà Nội còn là thành phố có nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng. Làng gốm Bát Tràng, làng Lụa Vạn Phúc, Đồng Ngũ Xã... không chỉ đóng vai trò về kinh tế mà còn là những địa điểm văn hóa, du lịch.
Làng nghề truyền thống
Sản phẩm gốm của làng nghề truyền thống Bát Tràng trên con đường Gốm sứ
Thành phố Hà Nội trước kia đã nổi tiếng với những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc "Hà Nội 36 phố phường".
Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi,
nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và
không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng
truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sát nhập vào Hà Nội, thành phố còn
có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo con số cuối năm 2008,
toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc
nhất Việt Nam.[127]
Nằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc nổi tiếng của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hưng Yên, làng Định Công ở quận Hoàng mai và làng Đồng Sâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ 15, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê
giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy,
những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm
cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng
đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu
Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời
kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên Rue changeurs, có nghĩa phố Đổi Bạc.
Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc
nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con
phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất.[128]
Vẽ truyền thần- một nghề truyền thống độc đáo trong khu phố cổ Hà Nội
Làng Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã nổi tiếng với sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ 14 khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men
truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát
Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là
một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn
hóa cùng sản phẩm gốm nổi tiếng, ngôi làng trở thành một địa điểm du
lịch thu hút của thành phố Hà Nội.[128]
Một làng nghề nổi tiếng khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã nổi tiếng với tên gọi lụa Hà Đông, từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng.[129] Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu
và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành
nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây
vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử
dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của
Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc.[130]
Lễ hội truyền thống
Những chiếc đò chở du khách vào lễ hội chùa Hương
Thăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương...
Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi
cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ
làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang.
Từ ngày 9 dến 12 tháng 1 âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi nổi tiếng với nghề làm nón quai thao
và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở
đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ
trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức.
Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò đĩ đánh bồng.
Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn,
nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác
như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày
12, hội kết thúc bằng lễ rã đám.[131]
Một trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng (xã Phù đổng huyện Gia Lâm), xuất phát từ một câu truyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về
đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một
diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa
Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới
đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội
trận, tái hiện lại cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ
10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng
trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo.
Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội
Gióng như hội đền Sóc ở xã Xuân Đỉnh huyện Từ Liêm, hội Sóc Sơn ở huyện Sóc Sơn, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi huyện Gia Lâm.[132]
Trong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Quang Trung được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu, tức 1789.
Lễ hội Quang Trung được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục
rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh
sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện lại hình ảnh của
quá khứ.[133]
Ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương,
lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và
khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách chảy hội thường bắt đầu
từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ
đền Trình. Từ đó, họ tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình,
núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà... rồi cập bến vào
chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa
Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Vào
những ngày đông, dòng người trẩy hội kéo dài không ngớt. Lễ hội chùa
Hương là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam.[134]
Ẩm thực
Một bát phở bò chín ăn cùng với quẩy.
Là trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực thành phố cũng nó những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen
màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm.
Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành
món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui.[135]
Thanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh trì, quận Hoàng mai, nổi tiếng với món bánh cuốn.
Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những
phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp
các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên
những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày
trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn.[136]
Một món ăn khác của Hà Nội, tuy xuất hiện chưa lâu nhưng đã nổi tiếng, là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc,
gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên
một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được
làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm.[137]
Phở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò,
thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh
phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn
đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm.[138] Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán...
Ở Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, tào phớ An Phú, nem chua làng Vẽ, nem Phùng, giò chả Ước Lễ.
Văn hóa Thăng Long – Hà Nội
Lễ tế trong một hội làng tại nội thành Hà Nội
Hà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô
khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú,
những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới
đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và Hà
Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những
danh nhân, nhân vật nổi tiếng của Việt Nam phần đông xuất thân từ
những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng
nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những
thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất
sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các
phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn
hóa của Hà Nội.[139]
Thăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của
những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng
đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa.[140]
Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết
tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của
nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ 20 cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: "Ngay
khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh
ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp.
Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp".[141] Những thập niên gần đây, một lần nữa, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ.
Tuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện
văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý,
điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008,[142] hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh và đáng xấu hổ tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm.[143] Nhà văn Băng Sơn phát biểu: "Tôi cảm thấy buồn và xấu hổ. Người Hà Nội làm xấu Hà Nội đi. Bao nhiêu năm hội hoa ở Đà Lạt, ở TP HCM
mà không phải làm hàng rào vẫn giữ được cho đến ngày cuối cùng". Những
vụ việc trên đã dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước
trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về “văn hóa
người Tràng An” trong thời đại ngày nay. [144]
Hà Nội trong nghệ thuật
Một người bán sen trên đường phố Hà Nội
Hà Nội luôn là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Trước
hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong
vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc Người Hà Nội, ngày nay đã trở nên quen thuộc.[145] Cũng trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, "Gò Đống Đa", Tiến về Hà Nội. Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: "Sẽ về Thủ đô" của Huy Du,
"Cảm xúc tháng Mười" của Nguyễn Thành, "Ba Đình nắng" của Bùi Công Kì.
Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và
kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như "Bài ca Hà Nội"
của Vũ Thanh, "Hà Nội - Điện Biên Phủ" của Phạm Tuyên, "Khi thành phố
lên đèn" của Thái Cơ, "Tiếng nói Hà Nội" của Văn An v.v... Bên cạnh đó,
Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kì và lãng mạn, với “ánh đèn
giăng mắc”, “hoa chen người đi, liễu rũ mà chi”, với hình ảnh người con
gái "khăn san bay lả lơi trên vai ai" trong những nhạc phẩm mang nhiều
tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn.
Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và
nét thanh lịch độc đáo của Thủ đô được khắc họa đậm nét qua giai điệu
của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với Nhớ về Hà Nội, Phan Nhân với "Hà Nội niềm tin và hi vọng", Hoàng Vân với "Tình yêu Hà Nội", Văn Kí với "Trời Hà Nội xanh" và "Hà Nội mùa xuân", Nguyễn Đức Toàn với "Hà Nội trái tim hồng", Trần Hoàn với "Khúc hát người Hà Nội",Trịnh Công Sơn với Nhớ mùa thu Hà Nội, Nguyễn Cường với "Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội", Dương Thụ với "Mong về Hà Nội", Phú Quang với Em ơi, Hà Nội phố,
"Hà Nội ngày trở về", Phạm Minh Tuấn với "Hà Nội ơi thầm hát trong
tôi", Nguyễn Tiến với "Chiều mưa Hà Nội", Trần Quang Lộc với "Có phải em
mùa thu Hà Nội",Trương Quý Hải với Hà Nội mùa vắng những con mưa,
Lê Vinh với "Hà Nội và tôi", Vũ Quang Trung với "Chiều Hà Nội" v.v...
Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm
nhạc như "Một thoáng Tây Hồ" của Phó Đức Phương, "Ngẫu hứng sông Hồng" của Trần Tiến,
"Chiều Hồ Gươm" của Đặng An Nguyên, "Truyền thuyết Hồ Gươm" của Hoàng
Phúc Thắng, "Bên lăng Bác Hồ" của Dân Huyền v.v... Có một số tác phẩm
tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về
chính mảnh đất này như: "Những ánh sao đêm" của Phan Huỳnh Điểu, "Thu quyến rũ" của Đoàn Chuẩn, "Từ một ngã tư đường phố" của Phạm Tuyên, "Mùa xuân làng lúa làng hoa" của Ngọc Khuê, "Hoa sữa" của Hồng Đăng...
Trong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa.[146] Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ nổi tiếng như Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du hay Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam.[146] Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo,
thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí" xô bồ, thường tìm về
những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là
những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong Vang bóng một thời như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai,
thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món
ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của
thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký nổi tiếng Hà Nội 36 phố phường.
Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo
khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả
những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội.[146] Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm nổi tiếng về thành phố này như Phố của Chu Lai, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong Nỗi buồn chiến tranh cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội.
Hình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến Giông tố, Sao tháng Tám, Hà Nội mùa đông năm 1946, Em bé Hà Nội, Phía bắc Thủ đô, Tiền tuyến gọi.[147] Em bé Hà Nội, tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó.[148] Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim khác khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như Tuổi mười bảy, Những người đã gặp, Hãy tha thứ cho em, Cách sống của tôi, Hà Nội mùa chim làm tổ.[147] Nhưng kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất Mùa hè chiều thẳng đứng,
một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối
cảnh Hà Nội. Chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội,
nhiều nhà làm phim Việt Nam dự định sẽ sản xuất một vài bộ phim về đề
tài này.
Trong hội họa, có lẽ người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội là họa sĩ Bùi Xuân Phái. Quê ở xã Vân Canh, Hà Đông, Bùi Xuân Phái theo học tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
và hầu như cả cuộc đời sống tại Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái,
Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố
nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay đã trở
nên nổi tiếng, thường được biết đến với tên gọi Phố Phái. Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử: Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân, Em Thúy của Trần Văn Cẩn, Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi của Nguyễn Đỗ Cung...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét