Ngành CN ưu tiên hay ngành CN quan trọng?
Đóng góp ý kiến cho Dự thảo, Bộ Tài chính cho rằng cần đặt mục tiêu phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2020 thực tế hơn, tránh hình thức. Theo cơ quan này, chỉ nên xác định ngành CN ô tô là một ngành được ưu tiên phát triển chứ không phải là ngành CN quan trọng như Dự thảo đưa ra. Bởi thực tế sau một thời gian dài bảo hộ cao nhưng ngành CN ô tô phát triển không như mong đợi, các doanh nghiệp (DN) không đầu tư nội địa hóa và đang có sự chuyển dịch sang lắp ráp đơn giản, nhập khẩu kinh doanh thương mại.
Theo Bộ Tài chính, các con số thống kê cho thấy một bức tranh buồn về ngành CN ô tô Việt Nam. Hiện cả nước có 397 DN tham gia lĩnh vực ô tô, trong đó có 51 DN lắp ráp ô tô (13 DN nhà nước, 23 DN tư nhân và 15 DN có vốn đầu tư nước ngoài), 40 DN sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe, 210 DN sản xuất linh kiện phụ tùng và 97 DN sửa chữa. Công suất thiết kế đạt 458.000 xe/năm, sản phẩm lắp ráp chiếm lớn nhất là xe tải (46,9%), tiếp đến là xe dưới 9 chỗ (43%), còn lại là xe khách và xe chuyên dụng.
Nguồn vốn trung bình của 1 DN lắp ráp ô tô là 531,9 tỷ đồng; DN sản xuất linh kiện là 74,5 tỷ đồng; DN sản xuất khung, gầm xe là 51,2 tỷ đồng. Hầu hết các DN chỉ NK linh kiện về lắp ráp mà chưa chú trọng đầu tư sản xuất phụ tùng linh kiện, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa. Cao nhất là Toyota Việt Nam, thành lập từ năm 1995, là liên doanh đầu tư sản xuất ô tô lớn nhất tại Việt Nam, đến nay sau 16 năm hoạt động, đạt tỉ lệ nội địa hoá từ 17%-37%.
Với các DN 100% vốn trong nước, "đầu đàn" của DN nhà nước là Tập đoàn Công nghiệp ô tô Việt Nam ( Vina Motor) mới chỉ dừng lại ở lắp ráp xe buýt, xe tải với sản lượng chiếm khoảng 10% thị trường.
Đình đám nổi bật hơn cả là Trường Hải, DN ngoài nhà nước với 2 nhà
máy lắp ráp ô tô qui mô lớn và trang bị hiện đại. Đây là DN duy nhất đầu
tư sản xuất lắp ráp từ xe tải, xe buýt đến xe du lịch với lượng sản
phẩm chiếm trên 20% thị trường.
Đánh giá chung về tình hình đầu tư của ngành CN này thời gian qua, đó là các DN đầu tư nước ngoài đều chỉ đầu tư thiết bị và công nghệ hạn chế, không được trang bị hệ thống sản xuất tự động hóa. Các công ty sản xuất lắp ráp trong nước có quy mô nhỏ, hầu hết đầu tư thiết bị và công nghệ chắp vá, lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn trong các công đoạn sản xuất, lắp ráp.
Sẽ điều tiết bằng thuế
Điểm thấy rõ nhất là suốt một thời gian dài các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô đã được hưởng nhiều chính sách ưu đãi thuế.
Bộ Tài chính thừa nhận, việc bảo hộ quá mức đối với ngành CN ô tô đã làm cho giá bán ô tô trong nước quá cao, tạo sức ỳ cho doanh nghiệp.
Vậy nên theo Bộ Tài chính, chính sách thuế trong thời gian tới cần phải góp phần giải quyết hài hòa các yếu tố: Giá xe ô tô phải giảm xuống mức hợp lý, đẩy ngành CN hỗ trợ, tăng tỉ lệ nội địa hoá, góp phần điều tiết lượng xe lưu thông trên thị trường phù hợp với sự phát triển hệ thống giao thông trong nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Vì vậy Bộ Tài chính đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc tính khả thi, những những giải pháp, cơ chế đột phá nêu ra trong dự thảo Quy hoạch. Bản Dự thảo đưa ra hàng loạt các chính sách ưu đãi liên quan đến thuế như: giảm 50% thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế Giá trị gia tăng (VAT), lệ phí trước bạ; nhà sản xuất được miễn thuế thu nhập DN 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu máy móc vật tư, tạo tài sản cố định; hưởng thuế nhập khẩu 0% đối với linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu trong nước chưa sản xuất được đến năm 2018.
Song theo Bộ Tài chính các chính sách ưu đãi thuế liên quan đến dòng xe chiến lược sẽ không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới. Hiện, Luật thuế TTĐB đã bãi bỏ chính sách miễn giảm thuế đối với với DN trong nước để không vi phạm quy tắc phân biệt đối xử; Các quy định của Nhà nước đã bỏ chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế theo tỉ lệ xuất khẩu hàng hóa của DN sản xuất để không vi phạm nguyên tắc trợ cấp hàng hóa xuất khẩu. Hơn nữa linh kiện, phụ tùng ô tô có tính chất lắp lẫn giữa các chủng loại xe rất cao, nếu quy định chính sách ưu đãi 0% cho những chủng loại xe chiến lược ngoài việc tăng chi phí quản lý sẽ tác động bất lợi đến việc khuyến khích phát triển CN hỗ trợ.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính, Đỗ Hoàng Anh Tuấn việc quy định chính sách thuế nhập khẩu theo bộ linh kiện CKD, IKD trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp, mang tính chất cào bằng, không khuyến khích sản xuất phụ tùng trong nước. Vì vậy Thủ tướng đã bãi bỏ chính sách này từ năm 2004 nên ề xuất quay trở lại áp dụng chính sách thuế theo bộ linh kiện CKD và IKD như dự thảo đề ra cần được cân nhắc kỹ.
Mặt khác nhiều ý kiến cho rằng việc xác định dòng xe chiến lược là xe du lịch dưới 9 chỗ cho thấy còn nhiều điểm cần xem xét. Đây là dòng xe có tính cạnh tranh cao, hay thay đổi, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lao động nhiều kinh nghiệm... Chính vì vậy loại xe này hiện các DN không chú trọng đầu tư, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá (tỉ lệ NĐH cao nhất hiện nay khoảng 15%). Như vậy mục tiêu đạt tỉ lệ nội địa hoá trên 40% và tỉ lệ xuất khẩu trên 60% đối với dòng xe chiến lược như bản Dự thảo đề ra được xem là rất khó đạt được.
Điểm được các DN sản xuất lắp ráp ôtô quan tâm nhất trong bản Dự thảo Quy hoạch là những chính sách ưu đãi của Nhà nước về thuế để hỗ trợ ngành CN ô tô phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên cái "phao" này có thể không có, vậy liệu có DN nào mặn mà đầu tư phát triển ngành CN ô tô Việt Nam?
Đóng góp ý kiến cho Dự thảo, Bộ Tài chính cho rằng cần đặt mục tiêu phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2020 thực tế hơn, tránh hình thức. Theo cơ quan này, chỉ nên xác định ngành CN ô tô là một ngành được ưu tiên phát triển chứ không phải là ngành CN quan trọng như Dự thảo đưa ra. Bởi thực tế sau một thời gian dài bảo hộ cao nhưng ngành CN ô tô phát triển không như mong đợi, các doanh nghiệp (DN) không đầu tư nội địa hóa và đang có sự chuyển dịch sang lắp ráp đơn giản, nhập khẩu kinh doanh thương mại.
Theo Bộ Tài chính, các con số thống kê cho thấy một bức tranh buồn về ngành CN ô tô Việt Nam. Hiện cả nước có 397 DN tham gia lĩnh vực ô tô, trong đó có 51 DN lắp ráp ô tô (13 DN nhà nước, 23 DN tư nhân và 15 DN có vốn đầu tư nước ngoài), 40 DN sản xuất khung gầm, thân xe, thùng xe, 210 DN sản xuất linh kiện phụ tùng và 97 DN sửa chữa. Công suất thiết kế đạt 458.000 xe/năm, sản phẩm lắp ráp chiếm lớn nhất là xe tải (46,9%), tiếp đến là xe dưới 9 chỗ (43%), còn lại là xe khách và xe chuyên dụng.
Nguồn vốn trung bình của 1 DN lắp ráp ô tô là 531,9 tỷ đồng; DN sản xuất linh kiện là 74,5 tỷ đồng; DN sản xuất khung, gầm xe là 51,2 tỷ đồng. Hầu hết các DN chỉ NK linh kiện về lắp ráp mà chưa chú trọng đầu tư sản xuất phụ tùng linh kiện, gia tăng tỉ lệ nội địa hóa. Cao nhất là Toyota Việt Nam, thành lập từ năm 1995, là liên doanh đầu tư sản xuất ô tô lớn nhất tại Việt Nam, đến nay sau 16 năm hoạt động, đạt tỉ lệ nội địa hoá từ 17%-37%.
Với các DN 100% vốn trong nước, "đầu đàn" của DN nhà nước là Tập đoàn Công nghiệp ô tô Việt Nam ( Vina Motor) mới chỉ dừng lại ở lắp ráp xe buýt, xe tải với sản lượng chiếm khoảng 10% thị trường.
Đánh giá chung về tình hình đầu tư của ngành CN này thời gian qua, đó là các DN đầu tư nước ngoài đều chỉ đầu tư thiết bị và công nghệ hạn chế, không được trang bị hệ thống sản xuất tự động hóa. Các công ty sản xuất lắp ráp trong nước có quy mô nhỏ, hầu hết đầu tư thiết bị và công nghệ chắp vá, lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn trong các công đoạn sản xuất, lắp ráp.
Sẽ điều tiết bằng thuế
Điểm thấy rõ nhất là suốt một thời gian dài các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô đã được hưởng nhiều chính sách ưu đãi thuế.
Bộ Tài chính thừa nhận, việc bảo hộ quá mức đối với ngành CN ô tô đã làm cho giá bán ô tô trong nước quá cao, tạo sức ỳ cho doanh nghiệp.
Vậy nên theo Bộ Tài chính, chính sách thuế trong thời gian tới cần phải góp phần giải quyết hài hòa các yếu tố: Giá xe ô tô phải giảm xuống mức hợp lý, đẩy ngành CN hỗ trợ, tăng tỉ lệ nội địa hoá, góp phần điều tiết lượng xe lưu thông trên thị trường phù hợp với sự phát triển hệ thống giao thông trong nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.
Vì vậy Bộ Tài chính đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc tính khả thi, những những giải pháp, cơ chế đột phá nêu ra trong dự thảo Quy hoạch. Bản Dự thảo đưa ra hàng loạt các chính sách ưu đãi liên quan đến thuế như: giảm 50% thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế Giá trị gia tăng (VAT), lệ phí trước bạ; nhà sản xuất được miễn thuế thu nhập DN 4 năm, giảm 50% trong 9 năm tiếp theo; miễn thuế nhập khẩu máy móc vật tư, tạo tài sản cố định; hưởng thuế nhập khẩu 0% đối với linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu trong nước chưa sản xuất được đến năm 2018.
Song theo Bộ Tài chính các chính sách ưu đãi thuế liên quan đến dòng xe chiến lược sẽ không phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại thế giới. Hiện, Luật thuế TTĐB đã bãi bỏ chính sách miễn giảm thuế đối với với DN trong nước để không vi phạm quy tắc phân biệt đối xử; Các quy định của Nhà nước đã bỏ chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế theo tỉ lệ xuất khẩu hàng hóa của DN sản xuất để không vi phạm nguyên tắc trợ cấp hàng hóa xuất khẩu. Hơn nữa linh kiện, phụ tùng ô tô có tính chất lắp lẫn giữa các chủng loại xe rất cao, nếu quy định chính sách ưu đãi 0% cho những chủng loại xe chiến lược ngoài việc tăng chi phí quản lý sẽ tác động bất lợi đến việc khuyến khích phát triển CN hỗ trợ.
Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính, Đỗ Hoàng Anh Tuấn việc quy định chính sách thuế nhập khẩu theo bộ linh kiện CKD, IKD trong giai đoạn trước khi gia nhập WTO đã bộc lộ nhiều điểm không phù hợp, mang tính chất cào bằng, không khuyến khích sản xuất phụ tùng trong nước. Vì vậy Thủ tướng đã bãi bỏ chính sách này từ năm 2004 nên ề xuất quay trở lại áp dụng chính sách thuế theo bộ linh kiện CKD và IKD như dự thảo đề ra cần được cân nhắc kỹ.
Mặt khác nhiều ý kiến cho rằng việc xác định dòng xe chiến lược là xe du lịch dưới 9 chỗ cho thấy còn nhiều điểm cần xem xét. Đây là dòng xe có tính cạnh tranh cao, hay thay đổi, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, lao động nhiều kinh nghiệm... Chính vì vậy loại xe này hiện các DN không chú trọng đầu tư, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá (tỉ lệ NĐH cao nhất hiện nay khoảng 15%). Như vậy mục tiêu đạt tỉ lệ nội địa hoá trên 40% và tỉ lệ xuất khẩu trên 60% đối với dòng xe chiến lược như bản Dự thảo đề ra được xem là rất khó đạt được.
Điểm được các DN sản xuất lắp ráp ôtô quan tâm nhất trong bản Dự thảo Quy hoạch là những chính sách ưu đãi của Nhà nước về thuế để hỗ trợ ngành CN ô tô phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên cái "phao" này có thể không có, vậy liệu có DN nào mặn mà đầu tư phát triển ngành CN ô tô Việt Nam?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét