Mr Hoàng : 0917.203099 - Mr Bình : 0913.142434
Trang chủ - ASIAvina
CÔNG TY CỔ PHẦN QUẠT VIỆT NAM ASIAvina: Là công ty chuyên sản xuất và phân phối quạt điện hàng đầu của Việt Nam với một thương hiệu ASIAvina.
Hình thành từ một cơ sở sản xuất nhỏ vào năm 1990, sau hơn 20 năm nỗ lực
phấn đấu hết mình. Công ty đã từng bước hoàn thiện cơ cấu sản xuất,
cũng như xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới phân phối trên toàn lãnh thổ Việt
Nam và một số quốc gia ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Đồng thời luôn
nỗ lực phấn đấu giữ vững danh hiệu “Nhà sản xuất thương hiệu quạt điện
hàng đầu Việt Nam". Thành tích đó đã được Người tiêu dùng khách quan
bình chọn liên tục là hàng Việt Nam chất lượng cao lần thứ 16 từ năm
1996 đến nay
Hai nhà máy ASIAvina tọa lạc tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc - Thành Phố Hồ
Chí Minh, và khu công nghiệp Mỹ Phước - tỉnh Bình Dương, với nhiều
chủng loại quạt được sản xuất như : Quạt Tháp, Qụat Đứng, Quạt Bàn, Quạt
Lửng, Quạt Hôp, Quạt Treo, Quạt Trần, Quạt Hơi Nước, Quạt Công nghiệp.
Doanh nghiệp Chúng tôi luôn ý thức: “Chất lượng gắn liền với sự sống còn
của Công Ty “. Ngay từ những ngày đầu hình thành chúng tôi luôn nỗ lực
cố gắng và từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng nghiêm ngặt,
từ khâu kiểm tra nguyên liệu đầu vào đến khâu phân phối sản phẩm hoàn
thiện.
Với phương châm “An toàn và chất lượng sản phẩm lên hàng đầu”. Chính vì
vậy, ASIAvina không ngừng tìm kiếm những mẫu mã mới theo xu hướng thị
trường, đồng thời luôn luôn cải tiến chất lượng và đặt tiêu chí an toàn
trên hết, hầu mong bảo vệ an toàn tuyệt đối cho người tiêu dùng. Kể từ
năm 2009, những dòng sản phẩm mới của quạt ASIAvina đã được cải tiến để
tăng độ an toàn hơn như: Motor được lắp thêm cầu chì chống cháy nên sẽ
được ngắt điện vào khi có sự cố, tránh gây cháy nổ. Nan lồng bảo vệ cánh
quạt được tăng số nan lên 120 nan, và có thêm một vành đai tại lồng
trước nhằm tăng độ cứng vững, đảm bảo an toàn ngay cả với ngón tay trẻ
nhỏ. Tiết kiêm điện luôn là bài toán với các Doanh nghiệp. Thấu hiểu
điều đó, với dòng sản phẩm phục vụ nhu cầu nhà hàng, công xưởng,
ASIAvina đã nghiên cứu cải tiến đưa ra thị trường dòng sản phẩm quạt
công nghiệp công suất 85W, 100W (các loại quạt công nghiệp khác trên thị
trường thường có công suất 200W- 250W). Dòng sản phẩm này của công ty
ASIAvina rất được thị trường ưa chuộng, đặc biệt là những Vùng thiếu
điện.
Mở rộng mạng lưới bán hàng để phục vụ tốt hơn người tiêu dùng. Công ty
Cổ Phần Quạt Việt Nam đã và đang xây dựng chuỗi cửa hàng chi nhánh và
cửa hàng nhượng quyền trên toàn quốc. Tới các cửa hàng chi nhánh của
chúng tôi, người tiêu dùng có thể tìm hiểu đa dạng sản phẩm quạt
ASIAvina và được nhân viên tận tình hướng dẫn kiến thức sản phẩm, các
chính sách hậu mãi với người tiêu dùng.
Với những sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã hợp thời trang và dịch vụ
tuyệt vời của Công ty ASIAvina dành cho khách hàng. Một lần nữa chúng
tôi càng vững lòng tin sẽ mang lại sự thành công cho cả quý khách hàng
và cho cả Doanh nghiệp.
Kể từ tháng 5/2011, công ty trở thành đối tác chiến lược với tập đoàn
Groupe SEB. Groupe SEB là một tập đoàn của Pháp được sáng lập vào năm
1857, đứng đầu thế giới về thiết bị gia dụng. Đến nay tập đoàn sở hữu 27
thương hiệu quốc tế như ALL-CLAD, KRUPS, LAGOSTINA, MOULINEX, ROWENTA,
TEFAL, CALOR, ARNO, SUPOR…bán sản phẩm tại hơn 150 quốc gia.
Sự có mặt của Groupe SEB sẽ giúp công ty đổi mới và nâng cao chất lượng
để công ty có thể phát triển thương hiệu quạt ASIAvina ra thế giới.
Do cắt điện luân phiên diễn ra liên tục, người dân đổ đi mua các mặt
hàng như quạt tích điện, đèn sạc để phòng lúc bị cúp điện bất thình lình
Đầu đường Nguyễn Lương Bằng (Hà Nội) là khu phố chuyên bán quạt Nhật,
nhưng trong gần một tuần nay, khu vực này bày bán la liệt các loại quạt
tích điện Trung Quốc. Chị Thanh, chủ cửa hàng số 40 Nguyễn Lương Bằng
cho biết: năm nay quạt tích điện bán chạy hơn hẳn do khách có nhu cầu
lớn trong những ngày mất điện. Những ngày cao điểm, cửa hàng bán được
vài chục chiếc.
Đứng chọn một chiếc quạt sạc pin, anh Thanh (tập thể Kim Liên) chia sẻ:
“Mất điện, người lớn còn chịu được, chứ trẻ con thì không thể chơi hay
ngủ được. Nhà tôi phải sắm 2 chiếc quạt tích điện, sạc đầy pin, hôm nào
mất điện thì bật cho các cháu cả ngày”.
Giá các loại quạt tích điện hiện đang bày bán phổ biến trên thị trường
từ 400.000 đến 1.350.000 đồng một chiếc, tương ứng với số giờ sử dụng từ
một đến 12 tiếng với loại có 2 ắc quy, bảo hành từ 3 tháng đến 2 năm.
Theo thông tin từ những người bán hàng, khách sử dụng quạt từ 6 tháng
đến một năm sẽ phải thay bình ắc quy một lần, với giá 130.000 đồng. Bên
cạnh chức năng tích điện, những chiếc quạt này còn có thêm nhiều tính
năng như đèn chiếu sáng, báo thức.
Tại các siêu thị điện máy lớn, các loại quạt tích điện hiện chưa có
nhiều. Anh Vũ Trọng Phú, nhân viên bán hàng ở một siêu thị điện máy có
tiếng tại Hà Nội cho biết: “Hầu hết các loại quạt sạc pin trên thị
trường là hàng Trung Quốc. Các siêu thị lại luôn đặt tiêu chí chất lượng
và uy tín lên hàng đầu nên mặt hàng này chưa được nhập về nhiều”.
Trong khi quạt tích điện có nguồn gốc Trung Quốc là chủ yếu thì các loại
đèn tích điện được bày bán đa phần được sản xuất tại Việt Nam hay các
nước Đông Nam Á với các hãng Lioa, Philips, Panasonic… Giá bán dao động
từ 250.000 đến 800.000 đồng, tương ứng với khả năng tích điện từ 3 đến 7
tiếng, bảo hành từ 3 đến 6 tháng.
Mẫu mã của các loại đèn này cũng rất phong phú: dạng đèn tuýp ống, đèn
măng sông, đèn cầm tay với bóng huỳnh quang hoặc bóng đèn Led. Các loại
đèn này cũng được tích hợp nhiều chức năng như đèn ngủ, đèn pin, radio…
Ngoài ra, để tránh những rắc rối nơi văn phòng khi đột ngột mất điện,
trên thị trường còn bán các bộ lưu điện với giá từ 3 triệu đến 3,5 triệu
đồng bộ. Anh Thụy, một người kinh doanh mặt hàng này cho biết: “Một bộ
lưu điện có thể cấp điện cho máy tính một ngày, cấp điện cho cửa cuốn 2
ngày, tương ứng với 15 lần đóng, mở”.
Với các thiết bị tích điện này, anh Nguyễn Đức Dũng, kỹ sư điện đưa ra
lời khuyên: “Sản phẩm có bền hay không phụ thuộc nhiều vào bộ ắc quy do
người sử dụng. Khi mua sản phẩm về, người tiêu dùng nên sạc trong vòng
15 giờ trước khi bắt đầu dùng. Sau mỗi lần sử dụng thì nên sạc đầy và
chỉ sạc lại khi gần hết điện. Khi ắc quy đầy, cần rút sạc điện để tránh
tình trạng chai bình”.
Xuân Ngọc
Mùa hè sắp đến và quạt điện lại trở nên
cần thiết với mỗi gia đình. Dưới đây là một vài kinh nghiệm giúp bạn
chọn mua và bảo dưỡng quạt điện.
1- Chọn mua
- Quạt điện thường gồm: quạt bàn, quạt
cây, quạt gắn tường và quạt trần. Thông số quan trọng là độ dài đường
kính quạt. Quạt cây và quạt bàn dùng thông dụng trong gia đình thường có
đường kính sải cánh: 30cm, 35cm và 40cm. Dùng quạt trần cần quan tâm
đến kích thước nhà ở để chọn cho phù hợp. Nhà 15m2 trở xuống nên dùng
loại có sải cánh 90cm; 15-20m2 là 105-120cm; trên 20m2 chọn loại 135cm.
- Sau khi chọn chủng loại, mẫu mã, nên
kiểm tra phần cơ điện. Trước hết, hãy bấm hoặc quay số 1 (quạt quay
chậm), sau đó ấn nút dừng quay. Làm như thế liên tục, mở rồi lại tắt
khoảng 3-5 lần để xem cánh quạt có chuyển động hay không và đếm số lần
chuyển động. Nếu số lần chuyển động càng nhiều thì độ nhạy càng cao.
Quạt điện loại tốt khi chạy có tiếng vù vù rất nhỏ và đều. Khi quạt đang
quay, dùng tay sờ vào phần vỏ của quạt không thấy có cảm giác rung.
Quạt chuyển động được một lúc, sờ tay vào vỏ ngoài gần như không có cảm
giác nóng lên là loại tốt.
2- Bảo dưỡng
- Với quạt trần, phải chú ý lau sạch bụi
bẩn trên cánh. Nếu muốn cất đi (vào mùa đông), nên kiểm tra khắp một
lượt, tháo rời các bộ phận và bao gói lại. Nếu khó hạ xuống thì chỉ cần
tháo cánh, cứ để đầu máy ở trên, dùng vải hoặc giấy bọc kỹ lại. Cần nhất
là phải tra dầu vào động cơ trước khi sử dụng lại.
- Với quạt cây và quạt bàn, trước khi
cất hãy mở lồng sắt, lau sạch bụi bẩn và vết ố trên cánh quạt. Sau đó mở
nắp bánh răng ở mặt sau ra kiểm tra xem dầu bôi trơn còn hay hết, bánh
răng còn hoàn hảo hay không. Tiếp tục mở nắp trước (hoặc nắp sau) có gắn
đệm trục, lau sạch 2 đầu trục, tra dầu máy vào đó. Đồng thời cần kiểm
tra kỹ dây điện, phích cắm, bộ phận biến áp xem có rò điện hay không.
Cắm điện chạy thử một lúc, nếu thấy tốt thì cất vào nơi khô ráo.
- Khi quạt đang trong chế độ sử dụng,
cần chú ý nếu nghe tiếng gió phát ra khác lạ cần tắt quạt và kiểm tra
lại bộ phận cơ điện xem có gặp trục trặc gì không.
Mới phổ biến trong khoảng vài năm trở
lại đây nhưng quạt tháp đã trở thành lựa chọn của nhiều gia đình bởi
kiểu dáng thời trang & những tính năng đa dạng.
Với giá thành vừa phải, phù hợp với mặt
bằng sinh hoạt chung cùng mức tiêu thụ điện năng ít, các loại quạt điện
đang là lựa chọn ưu tiên của nhiều gia đình và được xem là một trong
những thiết bị chống nóng hữu hiệu nhất hiện nay.
Dù xuất hiện sau cùng so với với các
loại quạt điện cơ, quạt hơi nước nhưng quạt tháp vẫn là dòng quạt được
nhiều người tiêu dùng lựa chọn nhất trong mùa hè này.
Không mới lạ như quạt không cánh, cũng không đa tính năng như quạt sạc, quạt tháp lại có khá nhiều ưu điểm riêng như kiểu dáng thanh lịch, sang trọng, tiết kiệm diện tích. Bạn có thể đặt ở nhiều vị trí khác nhau như góc nhà hay khe cửa mà không tốn diện tích như quạt cây hay quạt treo tường. Đặc biệt hơn là sử dụng khá tiện lợi, có thể quay với nhiều góc độ khác nhau, thích hợp khi cần cung cấp gió chính xác.
Không mới lạ như quạt không cánh, cũng không đa tính năng như quạt sạc, quạt tháp lại có khá nhiều ưu điểm riêng như kiểu dáng thanh lịch, sang trọng, tiết kiệm diện tích. Bạn có thể đặt ở nhiều vị trí khác nhau như góc nhà hay khe cửa mà không tốn diện tích như quạt cây hay quạt treo tường. Đặc biệt hơn là sử dụng khá tiện lợi, có thể quay với nhiều góc độ khác nhau, thích hợp khi cần cung cấp gió chính xác.
Quạt tháp có thể quay nhiều cung góc
khác nhau từ 60 đến 90, 120 hay thậm chí quay tròn 360 độ nên khả năng
tản gió rất lớn, khoảng không cần làm mát sẽ không bị hạn chế.
Hầu hết các dòng quạt tháp này đều sử dụng điều khiển từ xa, mang đến nhiều sự tiện nghi, thoải mái hơn cho người sử dụng. Từ bất kỳ vị trí nào cũng có thể điều chỉnh cho quạt hoạt động theo nhu cầu.
Hầu hết các dòng quạt tháp này đều sử dụng điều khiển từ xa, mang đến nhiều sự tiện nghi, thoải mái hơn cho người sử dụng. Từ bất kỳ vị trí nào cũng có thể điều chỉnh cho quạt hoạt động theo nhu cầu.
Hệ thống điều khiển đơn giản với các nút
bấm to, biểu tượng rõ ràng, màn hình LCD lớn hiển thị thông số hoạt
động giúp việc kiểm soát, điều chỉnh dễ dàng hơn. Tùy model mà màn hình
đặt phía trước hay trên nóc quạt.
Ngoài ra, dòng quạt tháp cũng khá
đa dạng về công năng sử dụng khi một số model cũng có khả năng phun
sương, sử dụng như quạt hơi nước. Hoặc một số khác lại có khả năng tạo
ion, phát tán vào không khí nhằm loại bỏ các thành phần ô nhiễm, gây dị
ứng như phấn hoa, bào tử nấm mốc…
Hơn nữa giá thành của dòng quạt này cũng
không quá cao, chỉ khoảng hơn 1 triệu đồng hoặc trung bình 1,5 triệu là
bạn đã có thể sở hữu những chiếc quạt tháp của các hãng như Coex,
Sanyo, Tifa, Midea, Nikko Kendo,…với chất lượng ổn định.
Cũng có những loại quạt rẻ hơn, dưới 1 triệu đồng như quạt tháp Nikko Kendo TDM-09/NK có giá 950.000 đồng hay quạt tháp Asia T501T chỉ có 480.000 đồng, quạt Midea FS10-S3 là 770.000 đồng. Tuy nhiên, những mẫu quạt này thường có công suất nhỏ và ít tính năng, chế độ gió hơn những loại có giá cao.
Các loại quạt tháp hơi nước hoặc có khả năng phát tán ion sẽ có giá cao hơn, trung bình từ 1,5 đến 2 triệu đồng do cấu tạo nhiều chi tiết máy và động cơ hoạt động phức tạp hơn.
Cũng có những loại quạt rẻ hơn, dưới 1 triệu đồng như quạt tháp Nikko Kendo TDM-09/NK có giá 950.000 đồng hay quạt tháp Asia T501T chỉ có 480.000 đồng, quạt Midea FS10-S3 là 770.000 đồng. Tuy nhiên, những mẫu quạt này thường có công suất nhỏ và ít tính năng, chế độ gió hơn những loại có giá cao.
Các loại quạt tháp hơi nước hoặc có khả năng phát tán ion sẽ có giá cao hơn, trung bình từ 1,5 đến 2 triệu đồng do cấu tạo nhiều chi tiết máy và động cơ hoạt động phức tạp hơn.
Với quạt hơi nước, hộc đựng nước sẽ đặt
dưới chân máy, động cơ sẽ thổi vào mặt nước/đá làm bay hơi nước ra
ngoài. Điển hình như quạt tháp hơi nước Coex model T2001C có giá 1.6
triệu đồng hay quạt Saiko TFC-980 là 1.8 triệu.
Còn những loại quạt tháp có giá trên 2 triệu đồng, thường là những mẫu quạt đa năng với hình thức đẹp, sang trọng và thời gian bảo hành dài tới 5 năm. Hoặc chúng vừa có thể thổi hơi nước vừa tạo ion lại có thêm cả chức năng làm ấm hoặc điều hòa không khí như mẫu quạt Midea ACS 120-FR hay mẫu Midea FS10-6AR cao cấp có giá khoảng 2.2 triệu đồng.
Thị trường quạt dân dụng nói chung đang bước vào những ngày sôi động nhất trong năm khi tại hầu hết các siêu thị điện máy, sản phẩm được ưu tiên hàng đầu là quạt điện và máy điểm hòa nhiệt độ. Nhất là khi thị trường năm nay ghi nhận thêm sự đóng góp của nhiều nhà sản xuất có tiếng với chế độ bảo hành, hậu mãi khá tốt.
Còn những loại quạt tháp có giá trên 2 triệu đồng, thường là những mẫu quạt đa năng với hình thức đẹp, sang trọng và thời gian bảo hành dài tới 5 năm. Hoặc chúng vừa có thể thổi hơi nước vừa tạo ion lại có thêm cả chức năng làm ấm hoặc điều hòa không khí như mẫu quạt Midea ACS 120-FR hay mẫu Midea FS10-6AR cao cấp có giá khoảng 2.2 triệu đồng.
Thị trường quạt dân dụng nói chung đang bước vào những ngày sôi động nhất trong năm khi tại hầu hết các siêu thị điện máy, sản phẩm được ưu tiên hàng đầu là quạt điện và máy điểm hòa nhiệt độ. Nhất là khi thị trường năm nay ghi nhận thêm sự đóng góp của nhiều nhà sản xuất có tiếng với chế độ bảo hành, hậu mãi khá tốt.
Ngoài yếu tố về màu sắc và chủng loại, chọn quạt trần sao cho hiệu quả cao và thoải mái, bạn nên xem xét những yếu tố sau:
1) Nên đặt quạt trần ở đâu? Hầu hết quạt trần nên đặt ở giữa phòng vì
sẽ tạo được luồng gió mát cho toàn bộ căn phòng của bạn. Tuy nhiên, nếu
phòng của bạn quá lớn (lớn hơn 30 m2 ) thì bạn có thể xem xét để đặt 2 quạt trần cách đều nhau. Không nên đặt quạt trần ngay trên giường ngủ vì lý do an toàn.
2) Chọn kích thước quạt như thế nào? Nên chọn quạt đường kính 80 cm
cho phòng có diện tích từ 8 đến 10 m ví dụ như bếp, phòng ngủ nhỏ. Nên
chọn quạt có đường kính 1.2 m cho phòng có diện tích từ 12 đến 15 m2 ví dụ như phòng bếp hay phòng ngủ vừa. Quạt đường kính 1.5m thích hợp cho phòng có diện tích từ 17 đến 30 m2.
3) Chiều cao trần nhà? Bạn phải đảm bảo trần nhà đủ cao sao cho sau
khi lắp quạt, khoảng cách từ cánh quạt đến nền nhà tối thiểu là 2.2 m.
Nếu bạn muốn quạt mát hiệu quả nhất, khoảng cách từ nền nhà đến cánh
quạt nên từ 2.4m đến 2.7m. Trường hợp trần nhà của bạn quá cao, nên hạ
thấp quạt xuống bằng cách lắp đặt ty quạt dài hơn.
4) Nguồn điện? Hầu hết các loại quạt trần yêu cầu một nguồn điện có
công suất bằng nhau. Tuy nhiên, nếu bạn lắp đặt quạt có đèn, bạn nên chú
ý lắp đặt dây điện sao cho đủ tải luôn đèn. Tốt nhất là trong khi xây
dựng, bạn nên lắp đặt đường dây trước nếu không bạn phải kéo đường dây
sau nhưng đường dây sẽ phải đi nổi.
5) Chọn quạt tốt như thế nào? Quạt trần rẻ tiền sẽ gây rắc rối cho
bạn. Vì lý do an toàn, bạn nên sắm cho mình quạt có thương hiệu và xuất
xứ rõ ràng. Quạt kém chất lượng sẽ không tạo ra một nguồn gió đủ mát vì
động cơ yếu và điểm nối giữa cánh quạt và động cơ thiết kế không tốt.
Quạt tốt là quạt có động cơ đủ mạnh để vượt qua lực cản của không khí,
tạo gió mạnh nhưng không gây ồn. Ngoài ra, quạt tốt có động cơ hoạt đồng
bền bỉ, không tiêu hao nhiều điện năng và động cơ không bị nóng.
Cùng là quạt điện, song trên thị trường
xuất hiện hai loại khác nhau là quạt tháp khá nhỏ gọn, được thiết kế
sang trọng và loại quạt điện truyền thống. Mức giá chênh lệch khá nhiều
khiến không ít người dùng cảm thấy khó chọn lựa. Hầu hết băn khoăn tập
trung vào tính kinh tế khi quyết định mua loại quạt nào, mà cụ thể là
vấn đề làm mát.
Quạt truyền thống hay quạt tháp?
Nhiều nhất, phổ biến nhất hiện nay vẫn
là loại quạt truyền thống. Ưu điểm của loại quạt này là có thể tạo một
lưu lượng khí rất lớn, giúp làm mát có hiệu quả. Tuy nhiên, cũng do có
tốc độ lưu chuyển dòng khí nhanh nên loại quạt này rất mau bám bụi.
Ngoài ra là thiết kế thô kệch khiến nhiều người dùng không mấy hứng thú
vì nó có thể phá vỡ không gian rất đẹp trong nhà. Trong quá trình vận
hành, loại quạt này cũng tỏ ra khá ồn, dễ khiến nhiều người dùng khó
chịu.
Một chi tiết khác cũng được nhiều người
dùng cân đo là các rủi ro có thể phát sinh từ chiếc quạt điện này, đặc
biệt là đối với các gia đình có trẻ nhỏ. Tốc độ quay của quạt khá cao,
phần lồng bảo vệ bên ngoài cánh quạt lại khá thưa. Trẻ thường cho tay
vào bên trong lồng bảo vệ, dẫn đến nhiều hậu quả đáng tiếc.
Quạt tháp sử dụng cách quạt lồng tương
tự như cánh quạt trong máy lạnh, hoạt động rất êm. Thiết kế này giúp nhà
sản xuất thu gọn kích thước quạt, chỉ cần tăng chiều cao để có lưu
lượng gió đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng. Thiết kế của loại quạt này cũng
rất đẹp. Đối với các nguy hại có thể xảy ra cho trẻ nhỏ, do cách quạt
dạng lồng, quay không quá nhanh, phần lồng bảo vệ lại rất khít nên khá
an toàn.
Cạnh tranh về ưu điểm
Song không phải là quạt tháp hoàn toàn
vượt trội quạt truyền thống. Sử dụng cánh quạt dạng lồng, dù quay khá
êm, song nếu có trục trặc phát sinh, khả năng sửa chữa thành công của
quạt tháp rất thấp. Mà có sửa chữa được đi nữa thì giá của dịch vụ này
không hề rẻ tí nào. Trong khi đó, linh kiện thay thế cho quạt truyền
thống lại khá nhiều, khá rẻ, từ chiếc cánh quạt đến cả mô-tơ, bộ nhông
quay và cả các nút bấm điều khiển tốc độ, tất cả đều không quá trăm ngàn
đồng.
Một vấn đề khác là vệ sinh. Quạt truyền
thống có kết cấu đơn giản, dễ tháo lắp. Bất cứ người dùng nào cũng có
thể mở và làm vệ sinh dễ dàng, nhanh chóng. Trong khi đó, với quạt tháp,
việc tháp lắp khá phức tạp. Mà cho dù đủ kiên nhẫn để tháo tất cả ốc
vít trên khung bảo vệ của quạt ra, nếu không thao tác đúng, bạn có thể
làm hư quạt.
Cuối cùng là khả năng làm mát hiệu quả.
Bản chất của quạt là tạo luồng luân chuyển không khí, theo đó, tính năng
cơ bản này của quạt tháp hoàn toàn không thể cạnh tranh với quạt truyền
thống. Ngoài cường độ gió, cả độ phủ rộng của quạt tháp cũng không sánh
bằng quạt truyền thống bởi phần cửa sổ gió của quạt tháp khá nhỏ.
Mỗi loại có ưu khuyết riêng. Tùy theo
nhu cầu, mục đích sử dụng mà bạn có thể quyết định loại quạt phù hợp.
Nếu bạn cần một thiết bị làm mát hiệu quả thì quạt truyền thống là lựa
chọn ưu tiên. Còn nếu bạn cần sự cân bằng giữa nhu cầu làm mát và tính
thẩm mỹ thì quạt tháp là giải pháp hữu hiệu.
Lời khuyên khi chọn quạt
Với quạt truyền thống, hạn chế chọn loại
có thể thay đổi độ cao. Thực tế cho thấy đây là chi tiết mà bạn ít sử
dụng nhất bởi có thể điều chỉnh hướng quạt theo hai chiều lên xuống. Đây
cũng sẽ là chi tiết mau hỏng nhất của quạt (ngay cả với loại đắt tiền,
có bộ chân bằng kim loại).
Nếu ít có nhu cầu thay đổi vị trí đặt
quạt, bạn nên chọn loại quạt treo tường nhằm hạn chế các rủi ro có thể
xảy ra cho trẻ em. Trên thị trường có hai loại quạt này: quạt có chân
treo tường bằng nhựa và loại chân bằng sắt. Hẳn loại quạt có chân bằng
sắt sẽ chắc chắn hơn, phần nào đó, tốc độ quạt cũng nhanh hơn vì nhà sản
xuất sẽ có thể tăng thêm tốc độ quay cho mô-tơ mà không quá bận tâm về
độ an toàn cho phép trong quá trình sử dụng.
Với quạt tháp, một số loại được nhà sản
xuất tính toán rất kỹ, thêm vào thân quạt bộ lọc bụi trong không khí. Bộ
phận này sẽ hạn chế tối đa bụi bẩn bám vào quạt làm giảm hiệu suất làm
mát. Nếu có thể, nên chọn loại quạt có điều khiển từ xa để tiện điều
khiển.
Khi thay đổi dù là khoảng nhỏ vị trí đặt quạt, bạn nên tắt và chờ khi quạt dừng quay hẳn mới di dời.
Những ngày đầu hè, nhu cầu mua sắm các
sản phẩm quạt điện khá cao. Sau đây là đặc điểm, tính năng của một số
loại quạt để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm phù hợp.
1. Quạt hộp
Loại quạt này khá gọn gàng, hình chữ nhật, hình vuông hay hình cầu. Quạt hộp tạo gió đều quanh phòng là nhờ lá chắn quay theo các hướng khác nhau. Ưu điểm của quạt hộp là có thể đặt vững chắc và khả năng giữ an toàn nếu trong nhà có trẻ nhỏ. Cùng một công suất và hãng sản xuất, quạt hộp có giá cao hơn so với quạt bàn hay quạt treo tường. Sản phẩm này có đặc điểm là hoạt động khá êm ái, luồng gió đều và ổn định.
1. Quạt hộp
Loại quạt này khá gọn gàng, hình chữ nhật, hình vuông hay hình cầu. Quạt hộp tạo gió đều quanh phòng là nhờ lá chắn quay theo các hướng khác nhau. Ưu điểm của quạt hộp là có thể đặt vững chắc và khả năng giữ an toàn nếu trong nhà có trẻ nhỏ. Cùng một công suất và hãng sản xuất, quạt hộp có giá cao hơn so với quạt bàn hay quạt treo tường. Sản phẩm này có đặc điểm là hoạt động khá êm ái, luồng gió đều và ổn định.
Một số mẫu quạt hộp của Asia, Senko,
Lifan có giá từ 359.000 – 399.000 đồng. Nếu hầu bao “rủng rỉnh”, bạn có
thể chọn sản phẩm của Mitsubishi, Panasonic hay KDK – thương hiệu quạt
số 1 tại Nhật Bản. Quạt hộp của KDK có thêm một tính năng rất đáng quan
tâm đó là chế độ thổi gió tự nhiên, mang đến cho bạn cảm giác dễ chịu.
Quạt KDK có giá cao hơn hẳn sản phẩm tương đương của thương hiệu khác,
chẳng hạn model C3TTR giá 1.540.000 đồng. KDK còn có mẫu quạt hộp có
chân để điều chỉnh lên xuống, độ cao thích hợp. Gía model C3 TRK:
2.2080.000 đồng, C3 RRK: 2.860.000 đồng/chiếc.
2. Quạt bàn
2. Quạt bàn
Đây là loại quạt truyền thống có mặt
trên thị trường từ rất lâu. Bạn có thể chọn quạt bàn nhỏ để sử dụng cho
em bé hay cho một người. Một số quạt bàn cao hơn, kích thước lớn hơn có
thể đặt cạnh bàn ăn, trong phòng khách. Quạt bàn cũng như quạt treo
tường hay quạt đứng có góc xoay lớn hơn quạt hộp, quạt tháp hay quạt hơi
nước nhưng luồng gió tạo ra sẽ bị ngắt quãng khi quạt xoay đi hướng
khác. Những loại quạt bàn cao cấp có 5 cánh mang lại nhiều gió hơn loại 3
cánh.
Quạt bàn của Asia, Lifan giá từ 239.000/chiếc; còn quạt Panasonic, KDK hay Mitsubishi có hoặc không có chức năng điều khiển từ xa có giá khá cao.
3. Quạt đứng
Quạt bàn của Asia, Lifan giá từ 239.000/chiếc; còn quạt Panasonic, KDK hay Mitsubishi có hoặc không có chức năng điều khiển từ xa có giá khá cao.
3. Quạt đứng
Chiều cao của quạt đứng từ 80 cm đến
1,2m và một số loại có thể thể điều chỉnh độ cao linh hoạt. Dựa theo nhu
cầu sử dụng và diện tích căn phòng, bạn có thể chọn loại quạt với tốc
độ gió phù hợp. Một số quạt đứng công nghiệp được làm cánh nhỏ nhưng tốc
độ quay và tạo gió mạnh hơn dành cho căn phòng lớn. Chẳng hạn nếu gian
phòng rộng khoảng 12 – 15 m2 bạn có thể chọn chiếc quạt có tốc độ thổi
gió là 60 m3/phút.
Một số model quạt đứng trên thị trường thuộc phân khúc bình dân giá từ 359.000 – 499.000 đồng, quạt KDK P40U giá 1.500.000 đồng, Lifan D-18CO giá 759.000 đồng, Mitsubishi LV16 RM/RP giá 1.589.000 đồng.
4. Quạt treo tường
Một số model quạt đứng trên thị trường thuộc phân khúc bình dân giá từ 359.000 – 499.000 đồng, quạt KDK P40U giá 1.500.000 đồng, Lifan D-18CO giá 759.000 đồng, Mitsubishi LV16 RM/RP giá 1.589.000 đồng.
4. Quạt treo tường
Đây là giải pháp tiết kiệm không gian
khá lý tưởng. Quạt treo tường có nguyên lý hoạt động tương tự quạt đứng
hay quạt bàn chỉ khác là bạn sẽ giật một sợi dây để thay đổi tốc độ gió
thay vì nút bấm.
Quạt có thêm dây điểu chỉnh quay hay đứng yên có giá cao hơn. Sản phẩm đắt nhất có chức năng điều khiển từ xa của KDK hoặc Panasonic khoảng trên 1 triệu đồng/chiếc.
5. Quạt sạc
Vào những đợt cao điểm cắt điện, mua quạt sạc cũng là một trong những giải pháp được nhiều gia đình lựa chọn để có thể ứng phó với không khí nóng bức của ngày hè. Quạt sạc sẽ rất hữu ích khi trong nhà có trẻ nhỏ, người ốm. Trên thị trường có một số thương hiệu quạt sạc như Kenede, Sunhome (Trung Quốc), USS (Việt Nam) với thời gian sử dụng từ 3 – 7 tiếng khi bình ắc qui được sạc đầy.
Quạt có thêm dây điểu chỉnh quay hay đứng yên có giá cao hơn. Sản phẩm đắt nhất có chức năng điều khiển từ xa của KDK hoặc Panasonic khoảng trên 1 triệu đồng/chiếc.
5. Quạt sạc
Vào những đợt cao điểm cắt điện, mua quạt sạc cũng là một trong những giải pháp được nhiều gia đình lựa chọn để có thể ứng phó với không khí nóng bức của ngày hè. Quạt sạc sẽ rất hữu ích khi trong nhà có trẻ nhỏ, người ốm. Trên thị trường có một số thương hiệu quạt sạc như Kenede, Sunhome (Trung Quốc), USS (Việt Nam) với thời gian sử dụng từ 3 – 7 tiếng khi bình ắc qui được sạc đầy.
Chị Nguyễn Thị Thu Hà, giám đốc phát
triển kinh doanh điện gia dụng của Thegioidientu.com “mách nhỏ” người
tiêu dùng những bí quyết để quạt sạc bền hơn như sau:
• Không nên cắm điện liên tục khi sử dụng quạt sạc vì như vậy rất dễ làm biến thế bị hư hỏng, không thể sạc tiếp được nữa.
• Khi dùng quạt sạc, không nên để quạt sạc hết sạch điện năng mới đem sạc. Để ý lúc quạt sạc sắp hết năng lượng thường quay chậm hơn thì nên sạc điện ngay.
• Nếu lâu ngày không có nhu cầu sử dụng bạn cũng nên lấy quạt ra sạc đầy bình mỗi tháng 1 lần vì dù không sử dụng nhưng thiết bị này vẫn phóng điện và tiêu hao điện năng.
Quạt sạc thường có kích thước nhỏ, giá từ 519.000 đồng/chiếc trở lên. Thương hiệu quạt USS của Việt Nam có tới 2 bình ắc qui nên thời gian sử dụng khi đầy bình cũng cao gấp đôi của Sunhome, từ 7 – 8 tiếng. Nếu bình ắc qui hư hỏng bạn có thể thay bình mới với giá khoảng 150.000 đồng/bình.
6. Quạt hơi nước
• Không nên cắm điện liên tục khi sử dụng quạt sạc vì như vậy rất dễ làm biến thế bị hư hỏng, không thể sạc tiếp được nữa.
• Khi dùng quạt sạc, không nên để quạt sạc hết sạch điện năng mới đem sạc. Để ý lúc quạt sạc sắp hết năng lượng thường quay chậm hơn thì nên sạc điện ngay.
• Nếu lâu ngày không có nhu cầu sử dụng bạn cũng nên lấy quạt ra sạc đầy bình mỗi tháng 1 lần vì dù không sử dụng nhưng thiết bị này vẫn phóng điện và tiêu hao điện năng.
Quạt sạc thường có kích thước nhỏ, giá từ 519.000 đồng/chiếc trở lên. Thương hiệu quạt USS của Việt Nam có tới 2 bình ắc qui nên thời gian sử dụng khi đầy bình cũng cao gấp đôi của Sunhome, từ 7 – 8 tiếng. Nếu bình ắc qui hư hỏng bạn có thể thay bình mới với giá khoảng 150.000 đồng/bình.
6. Quạt hơi nước
Cánh quạt quay sẽ thổi luồng hơi mát
lạnh từ đá thường hoặc đá khô chuyên dụng trong không gian. Quạt hơi
nước cũng có nhiều chế độ thổi gió, như chế độ thổi gió cây cỏ, thổi hơi
lạnh nhiều hay ít… Một số mẫu quạt trên thị trường như Legend LA – 004
giá 1.299.000 đồng, Alaska A288C giá 1.859.000 đồng.
7. Quạt tháp
Quạt tháp thích hợp với những gia đình có không gian nhỏ hẹp. Cấu trúc hình trụ dài, gọn ghẽ khiến quạt tháp chiếm rất ít không gian và luồng gió thổi thật êm ái. Bạn có thể chọn quạt Asia T2004 giá 1.099.000 đồng, quạt Alpha 008 giá 1.199.000 đồng hay Alaska T 35 1.669.000 đồng.
7. Quạt tháp
Quạt tháp thích hợp với những gia đình có không gian nhỏ hẹp. Cấu trúc hình trụ dài, gọn ghẽ khiến quạt tháp chiếm rất ít không gian và luồng gió thổi thật êm ái. Bạn có thể chọn quạt Asia T2004 giá 1.099.000 đồng, quạt Alpha 008 giá 1.199.000 đồng hay Alaska T 35 1.669.000 đồng.
nguồn: Phunuonline
Mùa nóng, một cây quạt dể trong nhà là
điều không thể thiếu đối với mỗi người, mỗi gia đình. Tuy nhiên quạt
hiện có rất nhiều loại, mỗi loại có tính năng riêng, phù hợp trong những
môi trường sử dụng khác nhau và cũng cần được chăm sóc thường xuyên như
những đồ dùng khác. Sau đây là một số cách sử dụng quạt bền và mang lại
hiệu quả cao.
Quạt trần:
Quạt trần:
- Dùng cho những căn phòng rộng, thường có nhiều người.
- Ưu thế của nó là không tốn diện tích,
có thể làm thông mát cho cả phòng; lượng gió nhiều hơn quạt bàn nếu dùng
với cùng một lượng điện.
- Bạn cũng nên lưu ý là sản phẩm có tụ điện sẽ tiết kiệm điện hơn loại dùng vòng chập.
- Dùng Quạt trần bạn phải thường xuyên
kiểm tra trục, nếu thấy lỏng thì sửa ngay vì đã xảy ra nhiều trường hợp
quạt rơi xuống sàn, rất nguy hiểm.
- Ngoài ra, không để quá gần trần làm
tăng trở lực đường hút của quạt, nếu trần nóng, gió cũng bị nóng thêm.
Nhưng cũng không nên đặt quá thấp vì sẽ thu hẹp phạm vi mát.
Quạt đảo trần: có thể sử dụng thay quạt trần ở những căn phòng hẹp hơn. Loại này lắp đặt đơn giản, chi phí thấp.
Quạt hơi nước: mượn độ lạnh của nước, nước đá để tạo ra luồng gió mát tự nhiên, thích hợp cho phòng ngủ.
Quạt thông gió: hút không khí bẩn từ phòng kín ra ngoài, thường được đặt ở nơi có điều hòa, nhà vệ sinh...
Quạt bàn, cây và treo tường :được dùng nhiều nhất vì đa dạng, giá rẻ, thích hợp cho những diện tích nhỏ
Tuy nhiên cho dù sử dụng bất kì loại quạt nào bạn cũng nên lưu ý những điều sau:
- Trong quá trình sử dụng dùng với tốc độ càng cao càng tiêu thụ nhiều điện.Công suất tiêu thụ điện là 45W, ứng với tốc độ lớn nhất, đối với quạt trần là 70W.
- Khi dùng cho một người không nên để chế độ xoay (hay còn gọi là dùng “tuốc năng”) vì gió mát sẽ giảm đi.
- Mặt khác bạn nên thường xuyên làm vệ sinh, bảo dưỡng, kiểm tra dò điện, nhất là với quạt bàn và quạt cây.
- Trước khi cất, nên lau rửa sạch, tra
dầu mỡ rồi bọc kín quạt bằng túi nilon để tránh nước hay bụi bắn vào và
không để nơi ẩm thấp.
- Đồ quá cũ thường tiêu hao nhiều điện, bạn nên thay mới.
Việc để quạt thổi trực tiếp vào người
làm cơ thể mất nước và nhiệt lượng, bị lạnh và dễ mắc bệnh. Có người
đang rất nóng, mồ hôi như tắm, đột nhiên bật quạt lớn, dễ dẫn tới nhiễm
phong. Nếu lúc ngủ còn để quạt sẽ bị cúm. Y học đã ghi nhận những trường
hợp đột tử do nằm quạt.
Có bậc phụ huynh kể rằng sau khi dùng cả quạt hơi nước, quạt điện cho con để chống nóng thì con bị ốm. Đi khám bác sĩ bảo bé vừa bị đau họng, vừa bị trúng phong. Và trong các bệnh viện những ngày này số trẻ bị viêm đường hô hấp tăng nhanh, không ít trong số đó nguyên nhân bắt đầu từ máy lạnh, quạt điện.
Có bậc phụ huynh kể rằng sau khi dùng cả quạt hơi nước, quạt điện cho con để chống nóng thì con bị ốm. Đi khám bác sĩ bảo bé vừa bị đau họng, vừa bị trúng phong. Và trong các bệnh viện những ngày này số trẻ bị viêm đường hô hấp tăng nhanh, không ít trong số đó nguyên nhân bắt đầu từ máy lạnh, quạt điện.
Theo bác sĩ Quang Bình, Bệnh viện Việt
Nam - Cu Ba, Hà Nội, những ngày nắng nóng mọi người hay để điều hòa từ
18 đến 20 độ C, nhưng theo các chuyên gia y tế thì việc làm trên không
có hiệu quả như mong muốn mà còn tạo điều kiện cho các loại vi khuẩn,
virus phát triển. Không khí nóng - lạnh bất thường còn làm cơ thể không
kịp thích ứng nên dễ bị cúm trong ngày nóng. Nhiều nhà có thói quen đặt
quạt điện sát người trẻ và không đổi hướng trong thời gian dài khiến mồ
hôi bốc hơi rất nhanh, nhiệt độ ngoài da giảm xuống rõ rệt, còn phần da
không có gió, mồ hôi bốc hơi chậm, nhiệt độ ngoài da tương đối cao, mạch
máu da giãn rộng... làm sự tuần hoàn máu và bài tiết mồ hôi bị mất cân
bằng, bị đau đầu, váng đầu, toàn thân bứt rứt... Nặng hơn là bị trúng
gió, hội chứng vai gáy, cần phải có bác sĩ điều trị.
Theo các bác sĩ, quạt điện chỉ nên dùng để làm thay đổi luồng không khí trong phòng cho bớt nóng bức. Khi nằm quạt, nên nằm cùng hướng thổi của quạt, hướng ra cửa. Không nên bật số cao, chỉ nên để tốc độ gió trong mức 0,2-0,5 mét/giây, tối đa không quá 3 mét/giây. Phòng thoáng gió thì chỉ nên mở quạt số nhỏ cho gió thổi nhẹ. Cũng không nên để quạt thốc thẳng vào người mà để gió thổi lệch sang phía khác tránh gió lạnh xâm nhập cơ thể, nhất là với người đang suy nhược hoặc đang đầm đìa mồ hôi. Tốt nhất là dùng quạt đảo chiều. Người già yếu, người suy nhược và trẻ em nên ít dùng quạt điện. Khi mồ hôi ra nhiều, không nên bật quạt ngay vì các mạch máu ngoài da toàn thân lúc đó đang giãn rộng, nếu bị gió đột ngột sẽ co lại làm ngưng trệ bài tiết mồ hôi, gây mất cân bằng giữa việc sinh nhiệt và tán nhiệt trong cơ thể, nhiệt lượng dư thừa không được phát tán ra ngoài... Mặt khác khi gió mát thổi, chức năng phòng ngự cục bộ giảm xuống, virus và vi khuẩn xâm nhập có thể gây bệnh cảm nhiễm đường hô hấp, đau khớp, thậm chí đau bụng tiêu chảy.
Theo các bác sĩ, quạt điện chỉ nên dùng để làm thay đổi luồng không khí trong phòng cho bớt nóng bức. Khi nằm quạt, nên nằm cùng hướng thổi của quạt, hướng ra cửa. Không nên bật số cao, chỉ nên để tốc độ gió trong mức 0,2-0,5 mét/giây, tối đa không quá 3 mét/giây. Phòng thoáng gió thì chỉ nên mở quạt số nhỏ cho gió thổi nhẹ. Cũng không nên để quạt thốc thẳng vào người mà để gió thổi lệch sang phía khác tránh gió lạnh xâm nhập cơ thể, nhất là với người đang suy nhược hoặc đang đầm đìa mồ hôi. Tốt nhất là dùng quạt đảo chiều. Người già yếu, người suy nhược và trẻ em nên ít dùng quạt điện. Khi mồ hôi ra nhiều, không nên bật quạt ngay vì các mạch máu ngoài da toàn thân lúc đó đang giãn rộng, nếu bị gió đột ngột sẽ co lại làm ngưng trệ bài tiết mồ hôi, gây mất cân bằng giữa việc sinh nhiệt và tán nhiệt trong cơ thể, nhiệt lượng dư thừa không được phát tán ra ngoài... Mặt khác khi gió mát thổi, chức năng phòng ngự cục bộ giảm xuống, virus và vi khuẩn xâm nhập có thể gây bệnh cảm nhiễm đường hô hấp, đau khớp, thậm chí đau bụng tiêu chảy.
Với máy lạnh thì khoảng cách nhiệt độ ở
ngoài trời và trong nhà chênh nhau 8-10 độ C là phù hợp với sự thích ứng
của cơ thể người. Mùa nóng nên để máy lạnh ở mức 26 độ C là cơ thể
tránh bớt được những bệnh mùa hè như ngạt mũi, viêm họng, đau đầu, chóng
mặt... cơ thể cũng không phải chống nóng hoặc chống lạnh, và không bị
choáng váng khi từ phòng lạnh ra ngoài trời. Không nên ngồi trong phòng
lạnh quá 2 giờ mỗi lần. Nên uống nhiều nước để chống khô họng, bôi kem
dưỡng ẩm để chống khô da. Trong phòng nên đặt một chậu nước, năng lau
sàn nhà ướt. Mỗi khi từ phòng lạnh ra ngoài nên mở to cửa và đứng ở cửa
khoảng 2-3 phút để cơ thể thích nghi với không khí mới.
Tuy nhiên, các bác sĩ vẫn khuyến cáo
rằng máy lạnh không tốt cho những bệnh nhân hô hấp, đặc biệt là bệnh
nhân hen suyễn, do đó nên dùng không khí tự nhiên, mở hết cửa phòng cho
thoáng để thông khí trong và ngoài phòng trao đổi. Máy điều hòa nên vệ
sinh sạch sẽ 1 tháng/lần hoặc thay tấm lọc mỗi tháng 1 lần, bởi nếu
không dàn lạnh sẽ là nguồn phát tán mầm bệnh vào nhà.
Hè nóng bức với những ngày cắt điện luân
phiên khiến các gia chủ phải điên đầu. Quạt sạc điện có vẻ là một giải
pháp hợp lý. Nhưng giữa một rừng quạt sạc loại nào mới là tốt nhất?
Quạt sạc điện Made in Vietnam
Những năm trước, khi không có nhiều sự
lựa chọn, người tiêu dùng bắt buộc phải sử dụng các loại quạt sạc điện
có xuất xứ từ Trung Quốc. Trên thực tế, những sản phẩm này không đem lại
hiệu quả cao do yếu kém về chất lượng, thời hạn sử dụng ngắn, độ tích
điện thấp và hao tốn quá nhiều điện năng.
Nắm bắt được thực trạng này, những nhà sản xuất trong nước đã nhập cuộc. Trên thị trường bắt đầu xuất hiện những sản phẩm quạt sạc điện Việt Nam. Trong số đó phải kể đến quạt sạc điện Senko của công ty Tân Tiến SK. Quạt sạc Senko được thiết kế với nhiều kiểu dáng thân thiện, hiện đại, màu sắc trang nhã, thích nghi với mọi không gian sống.
Nắm bắt được thực trạng này, những nhà sản xuất trong nước đã nhập cuộc. Trên thị trường bắt đầu xuất hiện những sản phẩm quạt sạc điện Việt Nam. Trong số đó phải kể đến quạt sạc điện Senko của công ty Tân Tiến SK. Quạt sạc Senko được thiết kế với nhiều kiểu dáng thân thiện, hiện đại, màu sắc trang nhã, thích nghi với mọi không gian sống.
Trong quá tình sản xuất, tất cả các khâu
trên dây chuyền sản xuất quạt Senko được kiểm soát theo hệ thống quản
lí chất lượng ISO 9001:2008. Đặc biệt các động cơ điện của quạt Senko
luôn dùng dây đồng chính phẩm để tạo lên độ bền cao cho sản phẩm khi tới
tay người sử dụng. Trong mỗi động cơ của quạt Senko đều có gắn cầu chì
chống cháy giúp Quạt tự ngắt dòng điện vào khi xảy ra sự cố; lồng quạt
được thiết kế chắc chắn, các khe hở nang quạt nhỏ để có thể đảm bảo độ
an toàn cao cho mọi thao tác trong quá trình sử dụng không chạm vào được
cánh quạt đang xoay.
Nhờ đó, sản phẩm quạt điện Senko đưa ra thị trường chất lượng được đảm bảo ổn định độ bền cao và an toàn cho người sử dụng.
Tiết kiệm năng lượng với quạt sạc
Để giải bài toán kinh tế, người dùng đau
đầu chọn loại quạt sạc nào cho hợp túi tiền? Giá cả vẫn tăng vù vù và
không ít nhà sản xuất đã buộc phải tăng giá các sản phẩm của mình.
Nghĩ đến nỗi lo của người tiêu dùng,
công ty Tân Tiến SK đã tìm cách giảm chi phí sản xuất để vẫn đảm bảo mức
giá tối ưu tới tay người dùng.
Công ty đã cho đầu tư nhiều máy ép nhựa
loại Secpo hiện đại: mỗi máy giảm được gần 25% lượng điện tiêu thụ so
với các máy có cùng sản lượng. Lắp đặt “tủ biến tầng” tiết giảm điện cho
các thiết bị máy móc khác. Đầu tư máy phát điện công xuất lớn là giải
pháp phụ tải, giúp cho công việc sản xuất được liên tục.
Nguồn: vietnamnet.vn
Dù chưa phải thời điểm nắng nóng nhất
hay cúp điện liên tục, nhưng các đại lý kinh doanh đồ điện dân dụng đã
tung ra nhiều loại đèn, quạt tích điện cho mùa nóng.
Theo các đại lý, mua đồ điện vào thời
điểm này sẽ “được giá hơn” khi vào mùa nóng, vì năm nay các mặt hàng này
dự báo sẽ tăng giá 20 – 30%.
Phong phú sản phẩm
Tại các trung tâm điện máy ở Hà Nội như: Pico, Nguyễn Kim hay các phố chuyên bán hàng điện máy như Nguyễn Lương Bằng, Trần Phú, Cầu Giấy... sản phẩm đèn sạc điện, quạt sạc điện được bày bán khá nhiều. Theo đánh giá của các chủ cửa hàng điện, các sản phẩm quạt sạc của Trung Quốc, Đài Loan vẫn chiếm lĩnh thị trường bởi giá cả phải chăng, mẫu mã bắt mắt, sản phẩm lại có thêm nhiều tính năng như: Radio, đèn, đèn báo thức... Giá quạt sạc dao động từ 400.000 – 800.000 đồng/ chiếc, tuỳ kích cỡ và tính năng. Cụ thể, quạt sạc Blacker có giá 650.000 đồng, quạt Sunca giá 800.000 đồng, Kennede giá từ 300.000 - 400.000 đồng, Hikito giá 400.000 đồng... Ở các cửa hàng nhỏ và các chợ thì giá mềm hơn, khoảng 20.000 – 50.000 đồng/chiếc.
Phong phú sản phẩm
Tại các trung tâm điện máy ở Hà Nội như: Pico, Nguyễn Kim hay các phố chuyên bán hàng điện máy như Nguyễn Lương Bằng, Trần Phú, Cầu Giấy... sản phẩm đèn sạc điện, quạt sạc điện được bày bán khá nhiều. Theo đánh giá của các chủ cửa hàng điện, các sản phẩm quạt sạc của Trung Quốc, Đài Loan vẫn chiếm lĩnh thị trường bởi giá cả phải chăng, mẫu mã bắt mắt, sản phẩm lại có thêm nhiều tính năng như: Radio, đèn, đèn báo thức... Giá quạt sạc dao động từ 400.000 – 800.000 đồng/ chiếc, tuỳ kích cỡ và tính năng. Cụ thể, quạt sạc Blacker có giá 650.000 đồng, quạt Sunca giá 800.000 đồng, Kennede giá từ 300.000 - 400.000 đồng, Hikito giá 400.000 đồng... Ở các cửa hàng nhỏ và các chợ thì giá mềm hơn, khoảng 20.000 – 50.000 đồng/chiếc.
Thời gian hoạt động của quạt tích điện dao động khoảng từ 4 – 6 tiếng đồng hồ.
Chị Hương Thanh, cửa hàng đồ điện gia
dụng số 5 đường Trần Phú, Hà Nội cho biết, sản phẩm đèn sạc hiện nay vẫn
chủ yếu là hàng của Trung Quốc, giá tuỳ chủng loại, chức năng và thương
hiệu, trung bình từ 180.000 – 250.000 đồng, loại cao cấp giá từ 400.000
– 800.000 đồng. Anh Phạm Văn Tuấn, chủ cửa hàng kinh doanh đồ điện gia
dụng trên đường Phùng Hưng, Hà Nội cho biết, ngoài những sản phẩm sạc
điện như quạt, đèn, hiện trên thị trường còn xuất hiện sản phẩm sạc sử
dụng nguồn năng lượng từ pin tiểu AA. Sản phẩm nhỏ gọn nên rất tiện cho
người đi xe máy, đi xa... Không những vậy, sản phẩm này còn có thể sử
dụng cho máy nghe nhạc MP3, Ipod. Tại các cửa hàng điện thoại di động,
các cửa hàng điện tử sản phẩm này được bán dao động từ 50.000 – 100.000
đồng/chiếc.
“Của bền tại người”
Anh Phạm Văn Tuấn cho biết, quạt sạc đa
phần có xuất xứ từ Trung Quốc với những thương hiệu như: Hikito,
Kennede, Sunca, Blacker nên chất lượng cũng có nhiều cấp. Tuy nhiên, để
sản phẩm sử dụng có bền, tốt hay không phụ thuộc nhiều vào cách sạc của
người tiêu dùng.
Theo kinh nghiệm của anh Tuấn, phần lớn
quạt hay bị “chai” sau khi sử dụng ít tháng là do người tiêu dùng không
áp dụng đúng cách sạc với ắc quy, sử dụng một thời gian rồi bỏ xó không
chú ý đến. Để quạt sạc nói riêng và các sản phẩm sạc điện khác bền,
người sử dụng cần chú ý sạc điện và bảo dưỡng. Khi mới mua về, người
tiêu dùng nên sạc trong vòng 15 tiếng, khi sạc phải tắt hết các chức
năng. Dù dùng ít hay dùng nhiều cũng phải sạc lại để ắc quy không bị
chai và nguồn điện không bị hụt. Khi không dùng đến thì sạc một lần
khoảng 8 – 10 tiếng/ 3 tháng để ắc quy luôn tích đủ điện.
Tất cả các loại đèn hay quạt chỉ nên sạc
điện khi pin gần hết, ắc quy đầy phải ngừng nạp ngay. Với những loại
đèn, quạt không có chức năng ngắt điện khi sạc đầy thì cần chú ý bởi nếu
sạc liên tục 48 giờ mà không ngắt cũng sẽ gây hiện tượng chai bình, phù
bình điện.
Theo kinh nghiệm của các chủ cửa hàng kinh doanh đồ điện dân dụng, mọi năm vào thời điểm nắng nóng nhất và lịch cúp điện thường xuyên, các sản phẩm đồ điện sạc như quạt sạc, đèn sạc... ngay cả máy phát điện đều cháy hàng và “đội” giá nên rất cao. Do vậy, trong thời điểm cận mùa nóng như thế này, mua sẵn các loại thiết bị này trong gia đình là hợp lý nhất.
Theo kinh nghiệm của các chủ cửa hàng kinh doanh đồ điện dân dụng, mọi năm vào thời điểm nắng nóng nhất và lịch cúp điện thường xuyên, các sản phẩm đồ điện sạc như quạt sạc, đèn sạc... ngay cả máy phát điện đều cháy hàng và “đội” giá nên rất cao. Do vậy, trong thời điểm cận mùa nóng như thế này, mua sẵn các loại thiết bị này trong gia đình là hợp lý nhất.
Mùa nóng bật quạt cho mát mẻ, mùa mưa
nhiều người dân thành phố cũng bật quạt do nhà chật nên bị ngộp, hoặc
chỉ đơn giản là do... dùng quạt quen rồi. Quạt điện hoạt động quanh năm
như thế, nên là một trong những thiết bị điện cần ưu tiên lưu ý độ an
toàn.
Các loại quạt điện được bán trên thị
trường hiện nay mang rất nhiều nhãn hiệu của các hãng khác nhau, nhưng
phần lớn đều sử dụng motor có đặc tính kỹ thuật giống nhau. Vì thế, khi
quạt bị hỏng hóc một bộ phận nào đó, bạn hay người nhà đều có thể tự sửa
khá dễ dàng.
Nên chọn phích cắm quạt có sẵn kẹp giữ
dây dẫn để tăng tính an toàn. Dây dẫn điện có sẵn của quạt thường không
bền, nên khi dây bị đứt thì thay bằng loại tốt để sử dụng được bền hơn.
Khi công tắc quạt hỏng, nên dùng bình xịt chuyên dụng để đẩy các chất
bẩn ra ngoài, sau đó ấn nhả các phím công tắc nhiều lần để các thanh
trượt được nhẹ. Nên thường xuyên sử dụng bộ hẹn giờ vì nếu không dùng
trong thời gian dài thì mặt vít tiếp điện sẽ bị gỉ.
Trong trường hợp chúng đã bị gỉ, nên
xoay qua xoay lại vài lần để hai mặt vít được đánh vào nhau, xác suất
tiếp điện tốt trở lại. Bạn cũng nên mắc nối tiếp 2 bóng đèn trang trí
quạt để khỏi mất công thay liên tục, vì loại đèn này rất nhanh bị hư do
dây điện trở quá nhỏ. Khi thay một cuộn dây quạt bị cháy, nên lưu ý dây
dẫn được lắp ở mặt trước hay sau theo sách hướng dẫn của hãng sản xuất.
Các bánh răng của bộ chuyển hướng làm bằng nhựa nên mau bị gãy, bạn hãy
thay cái mới và tra mỡ bôi trơn vào các bánh răng.
Ngoài ra, dù bạn thích sử dụng quạt
thường xuyên thì cũng phải lưu ý sức khỏe, nên bỏ thói quen "ngồi đâu
quạt đó". Khi mồ hôi ra nhiều, không nên lập tức bật quạt, vì lúc này
mạch máu ngoài da toàn thân đang giãn rộng, đột nhiên bị gió mát thổi
tới sẽ co lại, khiến việc bài tiết mồ hôi lập tức ngưng trệ, gây mất cân
bằng giữa việc sinh nhiệt và tán nhiệt trong cơ thể, nhiệt lượng dư
thừa không được phát tán ra ngoài.
Cần lưu ý đến diện tích và cấu tạo căn
phòng để bố trí bao nhiêu cái quạt là hợp lý. Dùng một quạt trần thì
cũng sẽ tiết kiệm điện hơn nhiều so với dùng nhiều quạt nhỏ khác. Nên
lau chùi định kỳ, vệ sinh quạt bằng cách cho dầu vào ổ trục và cho mỡ
mới vào hộp số quạt, kiểm tra điện áp định mức của thiết bị xem có phù
hợp với điện áp lưới điện trong gia đình bạn hay không...
Theo: Thanh_Nien
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NỀN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. TÍNH TẤT YẾU VÀ TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA.
1.Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
a. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
1.Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
a. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp hóa khác nhau:
+ Công nghiệp hóa TBCN
+ Công nghiệp hóa XHCN
* Xét về mặt lực lượng sản xuất, khoa học - công nghệ là giống nhau
*Khác nhau về mục đích, phương thức tiến hành và sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị.
Công nghiệp hóa diễn ra ở các nước khác nhau, thời điểm lịch sử khác
nhau, điều kiện kinh tế xã hội khác nhau.Do vậy, nội dung khái niệm cũng
có sự khác nhau.
Nhưng theo nghĩa chung nhất, khái quát nhất thì: công nghiệp hóa là quá
trình biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp.
- Quan niệm của Đảng ta: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính
sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện,
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao.
Quan niệm trên cho thấy, đây là một quá trình kết hợp chặt chẽ 2 nội
dung:công nghiệp hóa và hiện đại hóa trong quá trình phát triển:
+ Nó không chỉ đơn thuần là phát triển công nghiệp mà còn phải thực
hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, lĩnh vực và tòan bộ nền kinh
tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
+ Là một quá trình không chỉ tuần tự từ cơ giới hóa sang tự động hóa,
tin học hóa mà còn kết hợp giữa thủ công truyền thống với công nghệ hiện
đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu có thể và mang tính
quyết định.
- Do những biến đổi của nền kinh tế và điều kiện cụ thể của đất nước, CNH, HĐHH ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ CNH, HĐH theo đính hướng XHCN, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
+ CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế trí thức
+ CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước
+ CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu kinh tế và Việt Nam tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
b. Tính tất yếu của công nghiệp hóa- hiện đại hóa:
- Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng.
+ Nói cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là nói cơ sở
vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng
cho phương thức sản xuất đó.
+ Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước CNTB là công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu.
+ Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hóa.
CNXH cũng phải có một nền kinh tế phát triển cao hơn dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhưng
phải cao hơn CNTB về hai phương diện: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản
xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp hiện đại, có
cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và
thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Vì vậy, từ CNTB hay từ những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư
bản quá độ lên CNXH thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH
là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và
được thực hiện thông qua công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
-Do đó: đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH dù đã có công nghiệp,
có cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng đó chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa
phải là cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Mà muốn có cơ sở vật chất -
kỹ thuật của CNXH các nước này phải:
+ Tiến hành cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất
+ Tiếp thu, vận dụng phát triển cao hơn những thành tựu khoa học- công nghệ vào sản xuất
+ Hình thành cơ cấu kinh tế mới XHCN có trình độ cao và có tổ chức( có
kế hoạch, tổ chức sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư bản một cách hợp
lý có hiệu quả)
Chính vì lẽ đó đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên
CNXH như nước ta thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH
phải thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn, thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên CNH- HĐH là tất yếu khách quan, là một
việc làm đương nhiên đối với nước ta. Mỗi bước tiến của quá trình CNH,
HĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN
2. Tác dụng của công nghiệp hóa- hiện đại hóa
Thực hiện đúng đắn qúa trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa sẽ có tác
dụng to lớn về nhiều mặt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
- Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng năng suất lao
động,tăng sức chế ngự của con người đối với thiên nhiên, tăng trưởng và
phát triển kinh tế ; ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, nâng
cao đời sống nhân dân, góp phần quyết định sự thắng lợi của CNXH.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh tế
của nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích lũy và phát triển
sản xuất, tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập, giúp cho sự phát
triển tự do toàn diện của con người trong mọi hoạt động kinh tế - xã
hội.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học công nghệ phát triển nhanh đạt
trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật chất - kỹ thuật
cho quốc phòng, an ninh, đảm bảo đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của
đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp
tác quốc tế.
Như vậy,Công nghiệp hóa hiện đại hóa có mối quan hệ gắn bó trực tiếp với
lực lượng sản xuất. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là để thực hiện xã
hội hóa sản xuất về mặt kinh tế - kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nó có tác dụng, ý nghĩa quan trọng và toàn diện. Đảng ta đã xác
định: " Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo hướng hiện đại... là nhiệm vụ trung tâm" trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
II. CÁCH MẠNG KHOA HỌC-CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI VÀ NỀN KINH TẾ TRÍ THỨC
1. Đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại
* Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
1. Đặc điểm cơ bản của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại
* Đặc điểm của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật:
Cách mạng kỹ thuật lần I: Diễn ra đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối
thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế XX với nội dung chủ
yếu là cơ khí hóa, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy
móc.
Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ II: còn gọi là cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại, xuất hiện vào những năm 50 của thế kỷ XX. Cuộc
cách mạng này đã làm thay đổi to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế, xã hội và chính trị. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song
có 5 nội dung chủ yếu:
• Về tự động hóa: Sử dụng ngày càng nhiều máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số, rôbốt.
• Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống, ngày nay đã
và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguyên tử là chủ yếu và các dạng
năng lượng " sạch" như năng lượng mặt trời...
• Vật liệu mới: Chỉ chưa đầy 40 năm trở lại đây các vật liệu mới với
nhiều chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật
liệu tự nhiên không có được.
• Về công nghệ sinh học: Được ứng dụng ngày càng nhiều trong công
nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường... như công nghệ
vi sinh, , kỹ thuật nuôi cấy gen và nuôi cấy tế bào.
• Về điện tử và tin học: Đây là lĩnh vực vô cùng rộng lớn, hấp dẫn đang
được loài người đặc biệt quan tâm, nhất là lĩnh vực máy tính diễn ra
theo 4 hướng: nhanh, nhỏ, máy tính có xử lý kiến thức; máy tính nói từ
xa..
* Từ nội dung của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ nêu trên ta thấy có hai đặc điểm chủ yếu:
• Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp do con người tạo ra
và thống qua con người đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi cần phải có
chính sách đầu tư cho khoa học, kỹ thuật công nghệ tương ứng trong quá
trình CNH, HĐH
• Thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát
minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu
khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Nó đòi hỏi cần được
kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học - cộng nghệ với chiến lược
kinh tế - xã hội.
2. Sự hình thành và những đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế tri thức
* Sự hình thành kinh tế tri thức:
- Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức họat động.
* Sự hình thành kinh tế tri thức:
- Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức họat động.
- Kinh tế tri thức: Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có định nghĩa
của của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế đưa ra năm 1995:
Nền kinh tế tri thức là nên kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập
và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
+ Định nghĩa trên được hiểu là: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất xã hội…
+ Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn
tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành
tựu mới của khoa học, công nghệ…
+ Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức
khi giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo ( khoảng 70%) trong
tổng giá trị sản xuất của ngành nào đó. Một nền kinh tế được coi là là
đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành kinh tế
tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
* Đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức:
- Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định
sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các các ngành
kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và
công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
- Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng
rãi trong mọi lĩnh vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương
diện được phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình.
Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, nhuồn nhân lực nhanh chóng được tri thức
hóa; sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối
với mọi người và phát triển cong người trở thành nhiệm vụ trung tâm của
xã hội.
- Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn
đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới
nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
* Yêu cầu đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn
và phổ biến hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới;
- Kết hợp quá trình phát tuần tự với đi tắt đón đầu.
- CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức
- Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại
- Từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã
hội nhanh bền vững vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
III. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
Xây dựng nước ta thành nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện
đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với quá
trình phát triển lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tình thần cao,
quốc phòng và an ninh vững chắc, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phấn đấu để đếm năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước CNH theo
hướng hiện đại
2. Quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta:
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN gắn với
phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu quan trọng của
nền kinh tế và CNH, HĐH
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là
chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài Xây dựng nền kinh
tế mở hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng
thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước có khả năng sản xuất
có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yêu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ
và công bằng xã hội.
- Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh
vào hiện đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút ngắn thời gian,
vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương án phát triển, lựa chọn phương án đầu tư vào công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
Những quan điểm cơ bản trên về công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng nói
lên những đặc điểm chủ yếu của công nghiệp hóa, hiẹn đại hóa ở nước ta.
IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
1. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
1. Những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam
a.
Thực hiện cuộc cách mạng khọc học - công nghệ để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất.
Trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học công
nghệ và điều kiện cơ cấu kinh tế mở, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
ở nước ta có thể và cần phải bao hàm các cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ mà thế giới đã, và đang trải qua.
* Cuộc cách mạng khoa học - công nghiệp ở nước ta hiện nay có thể khái quát gồm hai nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc
dân.
- Tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những
thành tựu mới của khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với
những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp.
* Trong quá trình thực hiện cách mạng khoa học - công nghệ, chúng ta cần chú ý:
+ Ứng dụng những thành tựu mới, tiên tiến về khoa học và công nghệ,
đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và từng bước phát triển nền kinh tế tri thức.
+ Sử dụng công nghệ mới gắn liền với yêu cầu tạo nhiều việc làm, tốn
ít vồn, quay vòng nhanh, giữ được nghề truyền thống; kết hợp công nghệ
cũ, công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
+ Tăng cường đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa
học và công nghệ; kết hợp phát triển cả bề rộng lẫn chiều sâu, xây dựng
mới, cải tạo cũ, thực hiện tiết kiệm, hiệu quả.
+ Kết hợp các loại quy mô lớn vừa và nhỏ cho thích hợp; ưu tiên quy mô
vừa và nhỏ, coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế
- xã hội.
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội.
* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
* Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Khái niệm: Cơ cấu kinh tế là tổng thể các bộ phận hợp thành, cùng với
vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác phù hợp giữa các bộ phận trong hệ
thống kinh tế quốc dân.
Cơ cấu kinh tế được xem: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế.
Trong cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành là bộ phận có tầm quan trọng đặc biệt, là bộ xương của cơ cấu kinh tế
- Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu
kinh tế tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan nhất là các quy luật
kinh tế và xu hướng vận động phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Phù hợp với xu hướng tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
+ Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, của ngành, các
thành phần, các xí nghiệp cả về chiều rộng lần chiều sâu.
+ Thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất
và đời sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy cơ cấu kinh tế được tạo
dựng phải là "cơ cấu mở"
Đảng ta xác định Cần tập trung xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà
" bộ xương" của nó là " cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp - dịch vụ gắn
với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng" và khi hình thành cơ cấu
kinh tế đó sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Với phương châm là: Kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ
công nghệ mũi nhọn, tiên tiến vừa tận dụng được nguồn lao động dồi dào,
vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có
hạn ở nước ta; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn
nhưng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện; giữ được nhịp độ phát triển
hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và các
vùng trong nền kinh tế.
* Tiến hành phân công lại lao động xã hội
- Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa
tất yếu phải phân công lại lao động xã hội.
- Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phân công lao động
lại lao động xã hội phải tuân thủ các quá trình có tính quy luật:
+ Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động trong nông nghiệp giảm dần, tỷ
trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày càng một tăng lên.
+ Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội.
+ Tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ)
tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
- Phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai
trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết
hợp phát triển theo chiều sâu.
Trong hai địa bàn này, cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa bàn khác phải có sự chuẩn bị chu đáo.
2. Những nội dung cụ thể của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta trong những năm trước mắt
a. Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
a. Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân
- Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng
tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường
- Thực hiện cơ khí hoá, thuỷ lợi hoá…
- Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
b. Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
- Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao…
- Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế …
- Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội…
c. Phát triển kinh tế vùng
d. Phát triển kinh tế biển
d. Phát triển kinh tế biển
V. NHỮNG TIỀN ĐỀ ĐỂ ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
1. Tạo vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1. Tạo vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật ngày một hiện đại, đòi hỏi phải có nhiều vốn trong nước và ngoài
nước, trong đó nguồn vốn bên ngoài là quan trọng.
- Nguồn vốn bên trong bao gồm: nhân lực là tài sản cố định tích lũy từ
nhiều thế hệ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và nhiều loại vốn
hữu hình và vô hình khác.
- Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở hiệu
quả sản xuất, nguòn của nó là lao động thặngdư của nguươì lao động thuộc
tất cả các thành phần kinh tế.
Con đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng
năng suất lao động xã hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công
nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn
lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm...
- Nguồn vốn bên ngoài được huy động từ các nước trên thế giới dưới
nhiều hình thức khác nhau: Vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh
tế - xã hội; vốn vay ngắn hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau
của các nước và các tổ chức kinh tế; vốn đầu tư của nước ngoài vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết....
Biện pháp cơ bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là: Đẩy mạnh mở
rộng các hình thức hợp tác quốc tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho
các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các
tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước....
Ở nước ta hiện nay, nguồn vốn trong nước còn hạn chế nên phải tận dụng
khai thác nguồn vốn từ bên ngoài. Tuy nhiên, tạo nguồn vốn phải gắn chặt
với quản lý sử dụng tốt, có hiệu quả, khai thác tối đa khă năng vốn đã
có.
2. Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp cách mạng của quần chúng, trong đó lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ, khoa học quản lý và công nhân lành nghề đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có đầy đủ nguồn nhân lực về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có trình độ cao.
Muốn vậy phải coi con người và đặt con người vào vị trí trung tâm của
sự phát triển, giáo dục và đào tạo phải thật sự trở thành quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Phải có quy hoạch,
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguôn nhân lực, đồng thời phải
bố trí sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đã được đào tạo....
3. Xây dựng tiềm lực khoa học, công nghệ theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
- Khoa học và công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển
nên tiềm lực về khoa học và công nghệ còn yếu....Đây là một công việc
rất khó khăn và lâu dài, những trước mắt chúng ta cần tập trung giải
quyết các vấn đề sau:
+ Vấn dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định và triển khai
đường lối, chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt hiệu quả cao với
tốc độ nhanh.
+ Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để đánh giá chính xác tài
nguyên quốc gia, nắm bắt các công nghệ cao cùng những thành tựu mới về
khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động,
đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường.
+ Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao
gồm: Đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chuyên
gia; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các ngành khoa học và công
nghệ; xây dựng và thực hiện tốt cơ chế, chính sách tạo động lực cho sự
phát triển khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên
cứu khoa học và công nghệ.
+ Tiến hành điều tra cơ bản, thăm dò địa chất, quy hoạch và dự báo phát
triển là những điều kiện không thể thiếu được của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước...
4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
- Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ cùng với xu hướng quốc tế hóa đời
sống kinh tế đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế của các nước. Do đó, việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước
ta với các nước trở thành một tất yếu ... Quan hệ kinh tế càng mở rộng
và có hiệu quả, thị sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa càng thuận
lợi và nhanh chóng.
5. Tăng cường sự lãnh sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là
nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa, là sự nghiệp của toàn dân, nhưng
phải đươc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, thì sự nghiệp đó mới có thể hoàn thành tốt đẹp
được
(Theo Bài giảng KTCT)
Môn: Kinh tế chính trị (Quá độ lên XHCN)
Phân biệt quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới.
Ngày nay, sự phát triển nhảy vọt của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; bên cạnh đó là xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới đang diễn ra nhanh chóng đã đặt các nước đang phát triển như nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nếu không tận dụng tốt những cơ hội để vươn lên. CNH, HĐH là một nhiệm vụ chiến lược để đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững về mọi mặt, xây dựng thành công CNXH. Trước thời kỳ đổi mới, vào những năm 60, Đảng ta đã xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”.
Nghiên cứu quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi mới sẽ giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới.
Thứ nhất: Những điểm giống nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước trước đổi mới và hiện nay được thể hiện là:
- Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ;
- Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Chúng ta đã biết, xã hội loài người đã và đang trãi qua 5 hình thái kinh tế xã hội, tương ứng với nó là 5 phương thức sản xuất khác nhau. Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Đối với CNXH, giai đoạn thấp của CNCS muốn tồn tại và phát triển cũng cần thiết phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về những TLSX chủ yếu. Nước ta quá độ lên CNXH với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ LLSX ở mức thấp kém, lại trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, do đó cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn chưa thích ứng với CNXH. Để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN, đồng thời để củng cố khối liên minh công- nông- trí cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thành công của sự nghiệp CNH, HĐH chính là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.
Thứ hai: Những điểm khác nhau trong quá trình CNH trước và sau thời kỳ đổi mới thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:
- Về quan điểm:
+ Trước đổi mới, chúng ta hiểu CNH một cách chưa đầy đủ, cho rằng CNH đơn giản là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc; Trong giai đoạn đổi mới đất nước, vào năm 1994, Đảng ta chính thức xác định CNH, HĐH ở nước ta là: quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
+ Trước đổi mới, CNH ở nước ta đã đặt vấn đề theo hướng hiện đại hoá; Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của KHCN và dự kiến trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa do đó yêu cầu phải gắn chặt HĐH với CNH đã được đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.
+ CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Hiện nay, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem thị trường là yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện pháp tiến hành CNH, HĐH.
Do CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, vì vậy nó được xem là công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các DNQD và kinh tế tập thể thực hiện là chủ yếu; Trong giai đoạn hiện nay, CNH, HĐH được xác định là sự nghiệp của toàn dân, tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, dẫn đến quá trình CNH, HĐH cũng phải do các thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện. Tính tất yếu đó là do: trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trình độ LLSX, cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH còn thấp kém, không thể ngay lập tức làm cho LLSX phát triển đến mức cần thiết để xác lập nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu mà đòi hỏi phải xác lập QHSX XHCN từ thấp đến cao cho phù hợp với trình độ phát triển hiện tại của LLSX; mà do LLSX phát triển chưa đồng đều trong các ngành nghề, lĩnh vực nên tương ứng với mỗi trình độ phát triển đó là các hình thức sở hữu khác nhau về TLSX và các kiểu QHSX khác nhau, từ đó tất yếu sẽ có nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài ra, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế còn do chế độ xã hội cũ để lại, trong điều kiện chế độ xã hội mới, chúng vẫn mặc nhiên tồn tại.
+ CNH, HĐH trong thời kỳ trước đổi mới chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời bao tiêu sản phẩm làm ra, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao; bên cạnh đó, nhà nước chỉ chú trọng đầu tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu quả trong sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện CNH, HĐH phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”- (Văn kiện ĐH VIII của Đảng, tr 85).
+ CNH, HĐH trước đổi mới thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khép kín, hoặc chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, đây là mô hình phù hợp trong thời kỳ chống Mỹ-cứu nước; hHện nay, CNH, HĐH được thực hiện trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, do đó cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác theo xu thế quốc tế hoá, hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là: “CNH, HĐH phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – (Văn kiên ĐH IX của Đảng, tr 25).
+ Trước đổi mới, khi đất nước còn chiến tranh, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm để phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, do đó CNH, HĐH trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Hiện nay, chúng ta xác định: kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng- an ninh của đất nước, vì vậy thực hiện CNH, HĐH phải đảm bảo đi đôi với giữ vững quốc phòng- an ninh đất nước.
- Về mục tiêu của CNH, HĐH: Mục tiêu dài hạn của quá trình CNH, HĐH trước đổi mới và hiện nay là giống nhau, tuy nhiên đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta cụ thể thêm mục tiêu trung hạn, đó là: đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
- Về nội dung CNH, HĐH:
+ Trong những năm từ 1960-1981, chúng ta chủ trương CNH phải đi từ công nghiệp nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được nâng thành bản chất cốt lõi của CNH, HĐH đất nước do đó đã tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu là thuỷ điện) mà chưa chú ý đến đầu tư cho công nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa được tạo ra, cũng như hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép. Đến năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định phải ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; tuy nhiên do không đề ra được các chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để phát triển nông nghiệp, vì vậy CNH, HĐH vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp nặng, chưa chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp.
+ Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của CNH, HĐH được xác định là: đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản; phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, đồng thời phát huy được hiệu quả; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ dàng thấy được CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước; điều này là hoàn toàn phù hợp bởi vì nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống ở nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị đất nước. Từ chỗ chỉ tập trung phát triển công nghiệp nặng với một số ít ngành công nghiệp mũi nhọn nay đã chú ý đến cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và phát triển hợp lý các vùng, lãnh thổ; chú ý phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và tự động hoá. Từ mô hình kinh tế nhập khẩu nay đã chuyển sang mô hình hướng mạnh xuất khẩu là chính…
Ngoài những khác biệt trên, trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải không ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau:
- Phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng.
- Phải tạo được nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ mới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giáo dục- đào tạo, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc.
- Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ CNH, HĐH.
- Có đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn, đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc TQ.
Thực tế CNH,HĐH nổi lên một số tình hình: Đi tắt đón đầu hay là bãi thải công nghiệp (máy móc lạc hậu nhập về ồ ạt, cả công nghệ sinh học); phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội, phát triển văn hóa… song tình trạng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (kinh tế, VH-XH). Nguyên nhân do nhận thức; nhiều chủ trương chưa được thực hiện tốt; ỵéu kém về năng lực trong nhập máy móc thiết bị (cả tiêu cực); cơ chế chính sách chưa đầy đủ, kịp thời, nhất là đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường; việc tổng kết thực tiễn chậm; công tác nghiên cứu, ứng dụng, triển khai KHCN chưa được quan tâm…
Tóm lại, CNH, HĐH đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do đó trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được chắc chắn cũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn đến hiệu quả không cao; điều quan trọng là phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ để vươn lên. Từ những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, từ những kết quả đạt được trong những năm tiến hành CNH, HĐH theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng; chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, tin tưởng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhất định sẽ thắng lợi, CNXH nhất định sẽ thành công.
Phân biệt quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trước và sau thời kỳ đổi mới.
Ngày nay, sự phát triển nhảy vọt của KHCN, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học; bên cạnh đó là xu thế toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới đang diễn ra nhanh chóng đã đặt các nước đang phát triển như nước ta trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nếu không tận dụng tốt những cơ hội để vươn lên. CNH, HĐH là một nhiệm vụ chiến lược để đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững về mọi mặt, xây dựng thành công CNXH. Trước thời kỳ đổi mới, vào những năm 60, Đảng ta đã xác định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định: “Phát triển kinh tế, CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt”.
Nghiên cứu quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay, đồng thời so sánh với trước thời kỳ đổi mới sẽ giúp chúng ta hiểu và nhận thức sâu sắc hơn quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, từ đó góp phần tích cực vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời gian tới.
Thứ nhất: Những điểm giống nhau về quan điểm, chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước trước đổi mới và hiện nay được thể hiện là:
- Đảng ta luôn khẳng định CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ;
- Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân.
Chúng ta đã biết, xã hội loài người đã và đang trãi qua 5 hình thái kinh tế xã hội, tương ứng với nó là 5 phương thức sản xuất khác nhau. Mỗi phương thức sản xuất chỉ có thể được xác lập vững chắc trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Đối với CNXH, giai đoạn thấp của CNCS muốn tồn tại và phát triển cũng cần thiết phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và chế độ công hữu về những TLSX chủ yếu. Nước ta quá độ lên CNXH với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ LLSX ở mức thấp kém, lại trãi qua hàng chục năm chiến tranh tàn phá, do đó cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn chưa thích ứng với CNXH. Để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, củng cố và hoàn thiện QHSX XHCN, đồng thời để củng cố khối liên minh công- nông- trí cần thiết phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Thành công của sự nghiệp CNH, HĐH chính là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc xây dựng CNXH mà toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện.
Thứ hai: Những điểm khác nhau trong quá trình CNH trước và sau thời kỳ đổi mới thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau:
- Về quan điểm:
+ Trước đổi mới, chúng ta hiểu CNH một cách chưa đầy đủ, cho rằng CNH đơn giản là quá trình chuyển đổi từ lao động thủ công sang lao động máy móc; Trong giai đoạn đổi mới đất nước, vào năm 1994, Đảng ta chính thức xác định CNH, HĐH ở nước ta là: quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
+ Trước đổi mới, CNH ở nước ta đã đặt vấn đề theo hướng hiện đại hoá; Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, do sự phát triển vượt bậc của KHCN và dự kiến trong thời gian tới sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa do đó yêu cầu phải gắn chặt HĐH với CNH đã được đặt ra và ngày càng trở nên bức bách hơn.
+ CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp; Hiện nay, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem thị trường là yếu tố quan trọng góp phần trong việc phân bổ các nguồn lực cho sản xuất, trong việc hình thành cơ cấu kinh tế, xác định mục tiêu, bước đi, biện pháp tiến hành CNH, HĐH.
Do CNH, HĐH trước đổi mới được thực hiện theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, vì vậy nó được xem là công việc của nhà nước, nhà nước chỉ đạo các DNQD và kinh tế tập thể thực hiện là chủ yếu; Trong giai đoạn hiện nay, CNH, HĐH được xác định là sự nghiệp của toàn dân, tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là quan điểm hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta vì sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH là một tất yếu khách quan, dẫn đến quá trình CNH, HĐH cũng phải do các thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện. Tính tất yếu đó là do: trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trình độ LLSX, cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH còn thấp kém, không thể ngay lập tức làm cho LLSX phát triển đến mức cần thiết để xác lập nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu mà đòi hỏi phải xác lập QHSX XHCN từ thấp đến cao cho phù hợp với trình độ phát triển hiện tại của LLSX; mà do LLSX phát triển chưa đồng đều trong các ngành nghề, lĩnh vực nên tương ứng với mỗi trình độ phát triển đó là các hình thức sở hữu khác nhau về TLSX và các kiểu QHSX khác nhau, từ đó tất yếu sẽ có nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Ngoài ra, sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế còn do chế độ xã hội cũ để lại, trong điều kiện chế độ xã hội mới, chúng vẫn mặc nhiên tồn tại.
+ CNH, HĐH trong thời kỳ trước đổi mới chưa chú trọng đến hiệu quả kinh tế, nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất cho các đơn vị kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, đồng thời bao tiêu sản phẩm làm ra, do đó không phát huy được tính chủ động, sáng tạo của doanh nghiệp, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao; bên cạnh đó, nhà nước chỉ chú trọng đầu tư xây dựng các xí nghiệp quy mô lớn mà chưa chú ý đến tính hiệu quả trong sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện CNH, HĐH phải: “Lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”- (Văn kiện ĐH VIII của Đảng, tr 85).
+ CNH, HĐH trước đổi mới thực hiện trong mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, khép kín, hoặc chỉ quan hệ với các nước trong hệ thống XHCN, đây là mô hình phù hợp trong thời kỳ chống Mỹ-cứu nước; hHện nay, CNH, HĐH được thực hiện trong mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, do đó cần thiết phải mở rộng quan hệ hợp tác theo xu thế quốc tế hoá, hội nhập kinh tế thế giới, cụ thể là: “CNH, HĐH phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước” – (Văn kiên ĐH IX của Đảng, tr 25).
+ Trước đổi mới, khi đất nước còn chiến tranh, nhiệm vụ phát triển kinh tế nhằm để phục vụ cho nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, do đó CNH, HĐH trong giai đoạn này cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Hiện nay, chúng ta xác định: kết hợp chặt chẽ và toàn diện phát triển kinh tế với củng cố, tăng cường nền quốc phòng- an ninh của đất nước, vì vậy thực hiện CNH, HĐH phải đảm bảo đi đôi với giữ vững quốc phòng- an ninh đất nước.
- Về mục tiêu của CNH, HĐH: Mục tiêu dài hạn của quá trình CNH, HĐH trước đổi mới và hiện nay là giống nhau, tuy nhiên đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta cụ thể thêm mục tiêu trung hạn, đó là: đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
- Về nội dung CNH, HĐH:
+ Trong những năm từ 1960-1981, chúng ta chủ trương CNH phải đi từ công nghiệp nặng và vấn đề ưu tiên phát triển công nghiệp nặng được nâng thành bản chất cốt lõi của CNH, HĐH đất nước do đó đã tập trung đầu tư cho các ngành kinh tế mũi nhọn lúc này là cơ khí, luyện kim và năng lượng (chủ yếu là thuỷ điện) mà chưa chú ý đến đầu tư cho công nghiệp nhẹ và đặc biệt là nông nghiệp, trong khi tiền đề vật chất cần thiết chưa được tạo ra, cũng như hoàn cảnh chiến tranh và hậu quả của cuộc chiến tranh chưa cho phép. Đến năm 1982, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 của Đảng đã xác định phải ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đồng thời đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; tuy nhiên do không đề ra được các chính sách, giải pháp cụ thể, đồng bộ để phát triển nông nghiệp, vì vậy CNH, HĐH vẫn chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp nặng, chưa chú trọng đến việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế cho phù hợp.
+ Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản của CNH, HĐH được xác định là: đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm thuỷ sản; phát triển công nghiệp theo hướng ưu tiên phát triển các ngành chế biến lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng như dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng… với bước đi hợp lý, phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, đồng thời phát huy được hiệu quả; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ; đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Từ những nội dung đó, chúng ta dễ dàng thấy được CNH, HĐH trong giai đoạn hiện nay đã có sự khác biệt nhiều so với trước thời kỳ đổi mới. Từ tập trung ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng nay đã chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ, xem CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước; điều này là hoàn toàn phù hợp bởi vì nước ta vẫn là một nước nông nghiệp với 75% dân số sống ở nông thôn, phát triển kinh tế nông thôn sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế và ổn định chính trị đất nước. Từ chỗ chỉ tập trung phát triển công nghiệp nặng với một số ít ngành công nghiệp mũi nhọn nay đã chú ý đến cơ cấu kinh tế ngành, thành phần kinh tế và phát triển hợp lý các vùng, lãnh thổ; chú ý phát triển các ngành công nghiệp năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và tự động hoá. Từ mô hình kinh tế nhập khẩu nay đã chuyển sang mô hình hướng mạnh xuất khẩu là chính…
Ngoài những khác biệt trên, trong quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta đòi hỏi phải không ngừng xây dựng và phát triển những tiền đề sau:
- Phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng.
- Phải tạo được nguồn nhân lực đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ mới. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi phải chú trọng đến công tác giáo dục- đào tạo, bố trí sử dụng đúng người, đúng việc.
- Xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ CNH, HĐH.
- Có đường lối kinh tế đối ngoại đúng đắn, đạt hiệu quả kinh tế cao, kết hợp được sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, giữ vững độc lập chủ quyền dân tộc, xây dựng thành công CNXH, bảo vệ vững chắc TQ.
Thực tế CNH,HĐH nổi lên một số tình hình: Đi tắt đón đầu hay là bãi thải công nghiệp (máy móc lạc hậu nhập về ồ ạt, cả công nghệ sinh học); phát triển kinh tế gắn với công bằng xã hội, phát triển văn hóa… song tình trạng vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa (kinh tế, VH-XH). Nguyên nhân do nhận thức; nhiều chủ trương chưa được thực hiện tốt; ỵéu kém về năng lực trong nhập máy móc thiết bị (cả tiêu cực); cơ chế chính sách chưa đầy đủ, kịp thời, nhất là đất đai, khoa học công nghệ, tín dụng, thị trường; việc tổng kết thực tiễn chậm; công tác nghiên cứu, ứng dụng, triển khai KHCN chưa được quan tâm…
Tóm lại, CNH, HĐH đã được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ là lâu dài, với nhiều chạng đường đầy khó khăn, phức tạp, do đó trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, bên cạnh những kết quả tích cực đạt được chắc chắn cũng sẽ có lúc gặp trở ngại hoặc sai lầm, dẫn đến hiệu quả không cao; điều quan trọng là phải biết khắc phục những yếu kém, khuyết điểm đó, tranh thủ tốt thời cơ để vươn lên. Từ những thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới, từ những kết quả đạt được trong những năm tiến hành CNH, HĐH theo tinh thần nghị quyết Đại hội VIII của Đảng; chúng ta có quyền tự hào và tin tưởng vào đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng, tin tưởng sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhất định sẽ thắng lợi, CNXH nhất định sẽ thành công.
chim trĩ , chim trĩ giống
két sắt , tủ sắt , tủ tài liệu , tủ hồ sơ , két bạc
quạt công nghiệp , quạt điện công nghiệp
gia sư , trung tâm gia sư , dạy kèm ,
chim trĩ giống , chim tri giong
gia sư , trung tâm gia sư , dạy kèm ,
chim trĩ giống , chim tri giong
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét