Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013

quạt công nghiệp bán ở tại yên bái , mua quat cong nghiep yen bai báo giá rẻ

GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ TỈNH YÊN BÁI
 I. Điều kiện địa lý tự nhiên
1. Vị trí địa lý
                Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là 1 trong 13 tỉnh vùng núi phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang và phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn (159 xã và 21 phường, thị trấn); trong đó có 70 xã vùng cao và 62 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước, có 2 huyện vùng cao Trạm Tấu, Mù Cang Chải (đồng bào Mông chiếm trên 80%) nằm trong 61 huyện nghèo, đặc biệt khó khăn của cả nước.. Yên Bái là đầu mối và trung độ của các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lào Cai, là một lợi thế trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, với các thị trường lớn trong và ngoài nước.
2. Đặc điểm địa hình
            Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc – Đông Nam: phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy, phía Đông có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600 m trở lên, chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư thưa thớt, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khoáng sản, có khả năng huy động vào phát triển kinh tế - xã hội. Vùng thấp có độ cao dưới 600 m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44 % diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
3. Khí hậu
             Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 22 - 230C; lượng mưa trung bình 1.500 – 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình 83 – 87%, thuận lợi cho việc phát triển nông – lâm nghiệp. Dựa trên yếu tố địa hình khí hậu, có thể chia Yên Bái thành 5 tiểu vùng khí hậu. Tiểu vùng Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900 m, nhiệt độ trung bình 18 – 200C, có khi xuống dưới 00C về mùa đông, thích hợp phát triển các loại động, thực vật vùng ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – nam Văn Chấn, độ cao trung bình 800 m, nhiệt độ trung bình 18 – 200C, phía Bắc là tiểu vùng mưa nhiều, phía Nam là vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát triển các loại động, thực vật á nhiệt đới, ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ, độ cao trung bình 200 – 400 m, nhiệt độ trung bình 21 – 320C, thích hợp phát triển các loại cây lương thực, thực phẩm, chè vùng thấp, vùng cao, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Tiểu vùng nam Trấn Yên, Văn Yên, thành phố Yên Bái, Ba Khe, độ cao trung bình 70 m, nhiệt độ trung bình 23 – 240C, là vùng mưa phùn nhiều nhất tỉnh, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây ăn quả. Tiểu vùng Lục Yên – Yên Bình độ cao trung bình dưới 300 m, nhiệt độ trung bình 20 – 230C, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh, có hồ Thác Bà rộng 19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch.
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
            Theo số liệu thống kê năm 2010, Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 688.627,64 ha. Trong đó diện tích nhóm đất nông nghiệp là 583.717,47 ha, chiếm 84,76% diện tích đất tự nhiên; diện tích nhóm đất phi nông nghiệp là 51.713,13 ha chiếm 7,51%; diện tích đất chưa sử dụng là 53.197,04 ha chiếm 7,73%.
Trong tổng diện tích đất nông nghiệp thì đất sản xuất nông nghiệp là 107.317,69 ha; đất lâm nghiệp 474.768,01 ha; đất nuôi trồng thủy sản 1.574,35 ha, còn lại là đất nông nghiệp khác. Trong tổng diện tích đất phi nông nghiệp thì đất ở 4.826,62 ha; đất chuyên dùng 13.837,31 ha, còn lại là đất sử dụng vào mục đích khác. Trong tổng diện tích đất chưa sử dụng thì đất bằng chưa sử dụng là 666,02 ha; đất đồi núi chưa sử dụng là 48.654,14 ha, còn lại là núi đá không có rừng cây.
Đất Yên Bái chủ yếu là đất xám (chiếm 82,37%), còn lại là đất mùn alít, đất phù sa, đất glây, đất đỏ…
2. Tài nguyên rừng 
Năm 2010, diện tích đất có rừng toàn tỉnh Yên Bái đạt 406.230,8 ha, trong đó: đất rừng tự nhiên 231.563,7ha, đất rừng trồng 174.667,1 ha; đạt độ che phủ trên 58,4%.
            Yên Bái có nhiều loại rừng khác nhau như: rừng nhiệt đới, á nhiệt đới, và núi cao. Trong khu vực rừng á nhiệt đới của tỉnh có nhiều loại cây lá kim (như: pơmu, thông nàng, thông tre lá lớn, sa mộc, sam mộc) xen lẫn cây lá rộng thuộc họ sồi dẻ, đỗ quyên. Ở độ cao trên 2000m, rừng hỗn giao giảm dần, pơmu mọc thành rừng kín cao tới 40-50m, đường kính thân có cây tới 1,5m. Cao hơn nữa là những cánh rừng thông xen kẽ các tầng cây bụi nhỏ rồi đến trúc lùn, cậy họ cói, cậy họ hoa hồng, cây họ thạch nam, cây họ cúc, cây họ hoàng liên xen kẽ. Lùi dần về phía đông nam, độ cao hạ dần, khí hậu ấm áp hơn làm cho lớp phủ thực vật rừng có điều kiện phát triển. Bên cạnh các loại gỗ quý (nghiến, trúc, lát hoa, chò chỉ, pơmu, cây thuốc quý (đẳng sâm, sơn tra, hò thủ ô, hoài sơn, sa nhân), động vật hiếm (hổ, báo, cầy hương, lợn rừng, chó sói, sơn dương, gấu, hươu, vượn, khỉ, trăn, tê tê, đàng đẵng, ếch dát, gà lôi, nộc cốc, phượng hoàng đất) cùng nhiều khu rừng cho lâm, đặc sản (cọ, măng, song, móc, nấm hương, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè).
3. Tài nguyên khoáng sản
             Tài nguyên khoáng sản Yên Bái khá đa dạng, hiện đã điều tra 257 điểm mỏ khoáng sản, xếp vào các nhóm khoáng sản năng lượng, khoáng sản vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản kim loại và nhóm nước khoáng. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm các loại than nâu, than Antraxit, đá chứa dầu, than bùn…; loại than nâu và than lửa dài tập trung ở ven sông Hồng, sông Chảy và các thung lũng bồn địa như Phù Nham (Văn Chấn). Nhóm khoáng sản vật liệu xây dựng gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát sỏi…được phân bố rộng rãi trên khắp địa bàn tỉnh. Nhóm khoáng chất công nghiệp gồm đầy đủ các nguyên liệu công nghiệp từ nguyên liệu phân bón, nguyên liệu hoá chất, nguyên liệu kỹ thuật, đặc biệt là đá quý và bán đá quý được phân bố chủ yếu ở Lục Yên và Yên Bình. Nhóm khoáng sản kim loại có đủ các loại từ kim loại đen (sắt) đến kim loại nâu (đồng, chì, kẽm) và kim loại quý (vàng), đất hiếm phân bố chủ yếu ở hữu ngạn sông Hồng. Nhóm nước khoáng được phân bố chủ yếu ở vùng phía tây của tỉnh (Văn Chấn, Trạm Tấu), bước đầu được sử dụng tắm chữa bệnh.
II. Tiềm năng kinh tế
1. Những lĩnh vực kinh tế lợi thế
Yên Bái có lợi thế để phát triển ngành nông – lâm sản gắn với vùng nguyên liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh, fenspat, bột cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, sứ kỹ thuật, sứ dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng khác.
2. Tiềm năng du lịch
Yên Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp: hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ…Tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện để kết hợp phát triển du lịch sinh thái.          

DÂN CƯ

       Năm 2010, tổng dân số toàn tỉnh là 752.922 người. Mật độ dân số bình là 109 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ.   
         Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh sống, trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người. 2 dân tộc có từ 2.000 - 5.000 người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó người Kinh chiếm 49,6%, người Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người HMông chiếm 8,9% người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn lại là các dân tộc khác.
           Sự phân bố các cộng đồng dân tộc trên địa bàn tỉnh có những đặc trưng sau:
     + Vùng thung lũng sông Hồng chiếm 41% dân số toàn tỉnh, trong đó: người Kinh 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người Hmông chiếm 1,3% so với dân số toàn vùng.
          + Vùng thung lũng sông Chảy chiếm 28% dân số toàn tỉnh. Trong đó người Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người Nùng chiếm 7%... so với dân số toàn vùng.
     + Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn) chiếm 31% dân số toàn tỉnh.Trong đó: người Kinh là 33%; người Thái 19,2%, Tày 11,8%, Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1% so với dân số toàn vùng.
        Cộng đồng và các dân tộc trong tỉnh với những truyền thống và bản sắc riêng đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng và phong phú, có nhiều nét độc đáo, sâu sắc nhân văn và những truyền thống tập quán trong lao động sản xuất có nhiều bản sắc dân tộc.
NGUỒN LAO ĐỘNG
Năm 2010, số lao động trong độ tuổi là 400.643 người (trong đó thành thị là 68.754 người, nông thôn là 331.889 người) chiếm 53.21% dân số....
Trình độ lao động: 20.085 người có trình độ đại học, cao đẳng, 207 người trình độ thạc sỹ, có 9 tiến sỹ.
 KHÍ HẬU

Đặc trưng của khí hậu Yên Bái là nhiệt đới gió mùa, nắng và mưa nhiều, nền nhiệt cao. Nhiệt độ trung bình ít biến động trong năm (khoảng 18-20oC), cao nhất 37-39oC, thấp nhất 2-4oC. Gió thịnh hành là gió mùa đông bắc và gió mùa đông nam. Mưa nhiều nhưng phân bố không đều, lượng mưa trung bình 1.800 – 2.000mm/năm, cao nhất tới 2.204mm/năm và thấp nhất cũng đạt 1.106mm/năm. Một số vùng tiểu khí hậu vào tiết xuân thường có mưa dầm triền miên.
Các mùa chính trong năm
Khí hậu Yên Bái có 2 mùa rõ rệt gồm:
               - Mùa lạnh: từ tháng11 đến tháng 3 năm sau, vùng thấp lạnh kéo dài từ 115 -125 ngày, vùng cao mùa lạnh đến sớm và kết thúc muộn nên dài hơn vùng thấp, vùng cao từ 1.500m trở lên hầu như không có mùa nóng, nhiệt độ trung bình ổn định dưới 20oC, cá biệt có nơi xuống 0oC, có sương muối, băng tuyết; thường bị hạn hán đầu mùa lạnh (tháng 12- tháng 1), cuối mùa thường có mưa phùn, điển hình là khu vực thành phố Yên Bái , Trấn Yên, Yên Bình.
            - Mùa nóng: từ 4 đến tháng 10 là thời kỳ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình ổn định trên 25o C, tháng nóng nhất 37- 380C, mùa nóng cũng chính là mùa mưa nhiều, lượng mưa trung bình từ 1.500 – 2.200 mm/năm và thường kèm theo gió xoáy, mưa lũ  gây ra lũ quét ngập lụt. Sự phân bố ngày mưa, lượng mưa tùy thuộc vào địa hình theo hướng giảm dần từ Đông sang Tây theo địa bàn tỉnh. Theo thung lũng sông Hồng giảm dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Nhưng trong vùng thung lũng sông Chảy lại giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Chế độ mưa
            Yên Bái thuộc vùng có lượng mưa trung bình, theo số liệu của khí tượng thủy văn tỉnh, lượng mưa bình quân ở trạm Yên Bái là: 1.740,6 mm/năm; Văn Chấn 1.368,7 mm/năm; Mù Cang Chải 1.834,5 mm/năm.
            Phân bố lượng mưa theo xu hướng tăng dần từ vùng thấp đến vùng cao và lượng mưa phân bố không đồng  đều các tháng trong năm, tháng mưa nhiều nhất là tháng 5 đến tháng 9 (từ 114,8 đến 429,4 mm ); các tháng mưa ít nhất là tháng 12 đến tháng 3 (từ 1,1 đến 80,3 mm ).
              Do lượng mưa không đều giữa các tháng (10,11,12) là mùa khô, lượng mưa trung bình chỉ đạt 16,7 mm/tháng nên gây ra hạn hán, thiếu nước cho sản xuất và đời sống của nhân dân.
            Vào mùa mưa, ở một số nơi lượng mưa quá lớn như Mù Cang Chải, Trạm Tấu và vùng trong huyện Văn Chấn gây lũ lụt, thiệt hại mùa màng, làm hỏng các công trình giao thông, thủy lợi.
Chế độ ẩm
            Theo số liệu khí tượng thì độ ẩm tương đối, trung bình năm tại các trạm:
            Yên Bái là 86%; Văn Chấn 83%, Mù Cang Chải 81%. Sự chênh lệch về độ ẩm giữa các tháng trong năm của các vùng trong tỉnh lệch nhau không lớn, từ 3- 50C. càng lên cao độ ẩm tương đối giảm xuống. Độ ẩm giữa các tháng có sự chênh lệch, do độ ẩm phụ thuộc vào lượng mưa và chế độ bốc hơi (chế độ nhiệt và chế độ gió), tháng có độ ẩm lớn nhất là tháng 2,3,4,5,6,7 từ 80%- 89%, những tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 11,12,1 có độ ẩm từ 77% 85%.
              Yên Bái có lượng mưa hàng năm lớn, độ ẩm tương đối cao nên thảm thực vật xannh tốt quanh năm, thể hiện rất rõ tính chất gió mùa.
  Các hiện tượng thời tiết khác
           Sương muối: Xuất hiện chủ yếu ở độ cao trên 600m, càng lên sao số ngày có sương muối càng nhiều. Vùng thấp thuộc thung lũng sông  Hồng, sông Chảy ít xuất hiện.
           Mưa đá: Xuất hiện rải rác ở một số vùng, càng lên cao càng có nhiều mưa đá, thường xuất hiện vào cuối mùa xuân đầu mùa hạ và thường đi kèm với hiện tượng đông và gió xoáy cục bộ.
            Ngoài ra ở các vùng cao trên 1000m thỉnh thoảng còn có băng tuyết vào cuối tháng mùa đông.
Các vùng khi hậu
     Với các nét đặc trưng có thể chia Yên Bái thành hai vùng khí hậu lớn, có ranh giới được xác định bởi đường phân thủy của dãy núi cao theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, dọc theo hữu ngạn sông Hồng.Trong hai vùng lớn lại có tiểu vùng với những đặc biệt khác biệt.
Vùng phía Tây
            Phần lớn vùng này có độ cao trung bình trên 700m, địa hình chia cắt mạnh, mang tính chất khí hậu á nhiệt đới và ôn đới, ít chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Có gió Tây Nam nóng, khô nên khí hậu vùng này có nét đặc trưng là nắng nhiều, ít mưa so với vùng phía Đông. Xuất phát từ các yếu tố địa hình, khí hậu, đặc thù có thể chia vùng này thành 3 tiểu vùng sau:
            Tiểu vùng Mù Cang Chải: Vùng này có độ cao trung bình từ 900m, có nhiều nắng nhất tỉnh và chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam. Do độ cao địa hình lớn nên nhiệt độ thấp, nhiệt độ trung bình 18-200C, về mùa đông lạnh có khi xuống tới 00C.Tổng nhiệt độ năm 6.500-7.0000C, lượng mưa: 1.800- 2.000 mm/năm; độ ẩm 80% thích hợp phát triển cây trồng, vật nuôi vùng ôn đới.
     Tiểu vùng Tây Nam Văn Chấn: Vùng này có độ cao trung bình 800m, phía Bắc nhiều mưa, phía Nam là vùng ít mưa nhất tỉnh. Nhiệt độ trung bình là 18-200C, mùa đông nhiệt độ xuống tới 10C, lượng mưa 1.800mm/năm, độ ẩm 84%. Thích hợp trồng cây và vật nuôi vùng á nhiệt đới và ôn đới.
            Tiểu vùng Văn Chấn – Tú Lệ: Độ cao trung bình vùng này 250-300m, có thung lũng Mường Lò với diện tích trên 2.200 ha, nhiệt độ trung bình 22-230C, tổng nhiệt độ cả năm 8.0000C, độ ẩm 83% thích hợp phát triển cây lương thực, cây công nghiệp chè, đặc biệt chè tuyết vùng cao, quế, cây ăn quả và cây lâm nghiệp.
Vùng phía Đông
              Khí hậu này chịu ảnh hưởng nhiều của gió mùa Đông Bắc, mưa nhiều về cả số ngày và lượng mưa. Mưa phùn kéo dài ở thành phố Yên Bái và huyện Trấn Yên. Nhiệt độ trung bình 21-220C, lượng mưa bình quân 1.800-2000mm/năm, thích hợp phát triển cây nông nghiệp; lương thực, thực phẩm; cây công nghiệp, cây ăn quả, chè, cà phê; phát triển thuỷ sản... có hai tiểu vùng sau:
       Tiểu vùng Nam Trấn Yên - Văn Yên - Thành phố Yên Bái - Ba Khe; thuộc thung lũng sông Hồng, dưới chân hệ thống núi Hoàng Liên Sơn - Pú Luông, nhiệt độ trung bình 23-240C, tổng nhiệt độ 8.0000C, lượng mưa bình quân 1.800-2.200 mm/năm và vùng có mưa phùn kéo dài trong thời kỳ đầu năm.
       Tiểu vùng Lục Yên- Yên Bình: Thuộc thung lũng sông chảy- hồ Thác Bà, là vùng có diện tích mặt nước nhiều nhất tỉnh ( hồ Thác Bà diện tích 19.050 ha), có khí hậu ôn hòa, có điều kiện thuận lợi phát triển nông- lâm nghiệp, thủy sản và du lịch.
HẠ TẦNG GIAO THÔNG

Đường bộ: Mạng lưới giao thông đường bộ được hình thành và phân bố tương đối hợp lý so với địa hình, song chưa được hoàn chỉnh, chưa có đường tiêu chuẩn kỹ thuật cao, phần lớn là đường cấp IV, V, VI, nhiều tuyến chưa vào cấp, hệ thống giao thông nông thôn chưa thông xe được 4 mùa, mùa mưa lũ nhiều đoạn đường bị ngập hoặc sạt lở nghiêm trọng, còn thiếu một số tuyến ngang.
- Quốc lộ: Gồm 4 tuyến với tổng chiều dài 375,5 km. Các công trình cầu, cống đã được đầu tư xây dựng đồng bộ, đảm bảo giao thông thông suốt, không còn ách tắc giao thông trong mùa lũ.
+ Quốc lộ 37 dài 97,5 km (3,4 km đường cấp II, 12,3km đường cấp II, 81,8 km đường cấp IV).
+ Quốc lộ 70 dài 84 km (6 km đường cấp III, 78 km đường cấp IV).
+ Quốc lộ 32 dài 175 km (21km đường cấp III, 154 km đường cấp IV).
+ Quốc lộ 32C dài 17,5 km (1 km đường cấp III, 16,5 km đường cấp IV).
- Đường tỉnh: Tổng chiều dài 441 km, gồm 15 tuyến đi qua 66/180 xã phường. Các tuyến đường tỉnh gồm: Yên Bái – Khe Sang (78,5 km); Khánh Hòa – Minh Xuân (27 km); Văn Chấn – Trạm Tấu (30 km); Cảng Hương Lý – Văn Phú (12 km); Hợp Minh – Mỵ (36 km); Đại Lịch – Minh An (26km); Yên Thế - Vĩnh Kiên (83 km); An Bình – Lâm Giang (22km); Yên Bái – Văn Tiến (7 km); Cẩm Vân – Mông Sơn (10 km); Mậu A – Tân Nguyên (18 km); 2 đầu cầu Mậu A (1,4 km); Âu Lâu – Quy Mông – Đông An (52 km); An Thịnh – An Lương (38 km); Đường vào nhà máy xi măng Yên Bình (1 km);
- Đường đô thị: Tổng chiều dài 165,6 km, gồm: Thành phố Yên Bái 118,1 km, thị xã Nghĩa Lộ 15 km, Lục Yên 4,3 km, Mù Cang Chải 2,8 km, Trạm Tấu 1,6 km, Yên Bình 4,3km, Văn Chấn 6,5km, Văn Yên 5km, Trấn Yên 8km. Trong đó có 125,6 km đạt tiêu chuẩn đô thị, còn lại chưa vào cấp. Chất lượng đường tốt chiếm 33%, đường trung bình 50%, đường xấu và rất xấu 17%.
- Đường chuyên dùng: Tổng chiều dài 228,3 km, gồm các đường nông trường, lâm trường, quốc phòng, chủ yếu phục vụ vận chuyển nội bộ theo mùa vụ. Trong đó có 137 km đạt tiêu chuẩn đường cấp A, B nông thôn, hệ thống cống thoát nước chưa đầy đủ.
 - Đường giao thông nông thôn: Tổng chiều dài 5.743 km. Hầu hết các tuyến được xây dựng theo tiêu chuẩn cấp VI, cấp A, B nông thôn, nhiều tuyến mới khai thông, việc đi lại phải phụ thuộc vào thời tiết.
            * Đường thủy: Gồm 2 tuyến chủ yếu:
    - Tuyến sông Hồng dài 115 km, trong đó có 10 km đoạn Văn Phú – Yên Bái do Trung ương quản lý, còn lại 105 km chưa được khai thông luồng lạch và xây dựng bến cảng, kho bãi.
    - Tuyến hồ Thác Bà dài 83 km, trong đó có 50 km đoạn cảng Hương Lý – Thác Bà – Cẩm Nhân. Hiện đã có hệ thống báo hiệu đường thủy trên một số tuyến chính, các phương tiện đi lại dễ dàng quanh năm và có bến tàu khách đảm bảo vận chuyển hành khách đi lại và tham quan du lịch.
* Đường sắt trên tuyến Hà Nội- Lào Cai- Trung Quốc chạy qua Yên Bái dài 83 km, gồm 10 ga (1 nhà ga hạng 2; 9 nhà ga hạng 4) chạy qua địa phận 20 xã, phường, thị trấn. Các yếu tố địa hình, địa chất thủy văn, hệ thống thông tin tín hiệu lạc hậu, hệ thống cảnh báo đường ngang không an toàn, khổ đường hẹp (1,1 mét), lạc hậu so với các khu vực. Vận tốc tàu chạy thấp, hệ thống nhà ga, kho bãi, các dịch vụ còn ở mức thấp.
            * Đường hàng không: Sân bay Yên Bái tại huyện Trấn Yên là sân bay quân sự, đủ điều kiện thuận lợi để có thể sử dụng kết hợp phát triển kinh tế và quốc phòng nếu được Chính phủ cho phép. Ngoài ra còn có các sân bay Nghĩa Lộ, Nậm Khắt, Đông Cuông là những sân bay dã chiến từ thời chống Pháp.
HẠ TẦNG THỦY LỢI
Theo kết quả điều tra đối với các công trình có diện tích tưới trên 1 ha: Toàn tỉnh có 2626 công trình tưới bao gồm 2450 đập dâng, 160 hồ chứa, 16 trạm bơm. Trong đó có 807 công trình kiên cố, 1819 công trình tạm.
Về các công trình đầu mối và các công trình trên kênh:
-          Công trình đầu mối: 2607 công trình đập, 138 tràn xả lũ, 834 cống lấy nước
-          Kênh dẫn: 1367km kênh dẫn, 2206 km kênh đất.
-          Công trình trên kênh: 1210 cống qua đường, 418 cống tràn nước thừa, 298 cầu máng, 79 xi phông. Ngoài ra còn rất nhiều công trình nhỏ, kênh ống dẫn nước phục vụ tưới.
Theo thiết kế, các công trình tưới trên địa bàn tỉnh tưới được cho 28.422 ha, tuy nhiên thực tế chỉ tưới được 19.977 ha, đạt 70% 
HẠ TẦNG ĐIỆN NƯỚC

           Hệ thống điện: 
Toàn tỉnh có 1.012 trạm biến áp  trong đó có 2 trạm biến áp 110/35 KV, công suất 60.000KVA, 11 trạm biến áp 35/10 KV, tổng công suất 36.000 KVA; 4 trạm biến áp 35/6 KV, công suất 15.000 KVA;  2 trạm biến áp 22/6KV, công suất 20.000 KVA; 762 trạm biến áp 35/0,4 KV, tổng công suất hơn 137.000 KVA; 2 trạm biến áp 22/0,4 KV, tổng công suất 1.120KVA;  228 trạm biến áp 10/0,4 KV, tổng công suất hơn 47.000 KVA. 1 trạm 35/0,22KV với công suất 20 KVA.
Tỉnh có 269,1km đường dây 110 KV gồm 7 lộ và 2 nhánh rẽ trong đó có  70 km đường dây 110 KV 2 mạch.
Đường dây trung áp và hạ áp do điện lực quản lý: 1367,2 km đường dây 35 KV, 3,3 km đường dây 22KV, 179,3 km đường dây 10 KV và 1774,2 km đường dây 0,4 KV. Đường trục 0,4 là 1435 km, nhánh 1 pha là 240 km, nhánh 3 pha là 259,2 km,
    Với hệ thống mạng lưới điện như hiện nay, 90% số dân được dùng điện lưới quốc gia, riêng khu vực nông thôn có hơn 111 nghìn hộ được dùng điện.
Nước sinh hoạt:
- Nước sinh hoạt đô thị: Hiện nay thành phố Yên Bái, thị trấn Yên Bình đã có hệ thống nước máy cung cấp bởi Nhà máy nước Yên Bái – Yên Bình công suất 12.000 m3/ ngày và Nhà máy nước thị xã Nghĩa Lộ công suất 3.500 m3/ ngày cung cấp nước cho thị xã Nghĩa Lộ. Một số huyện lỵ cũng được cung cấp nước máy: Cổ Phúc, Yên Thế, Sơn Thịnh. Tuy nhiên, thực tế còn nhiều hộ gia đình sử dụng nước giếng tự đào.
- Nước sinh hoạt nông thôn: Toàn tỉnh hiện có 70.254 công trình cấp nước hợp vệ sinh. Trong đó: 70.012 Công trình cấp nước nhỏ lẻ gồm: (giếng đào, giếng khoan, bể lu chứa nước mưa, nước sông, suối đã qua xử lý…), 242 công trình cấp nước tập trung (Trong số 242 công trình cấp nước tập trung chỉ có 71 công trình hoạt động bền vững). Tính đến hết năm 2010  dân số nông thôn trên địa bàn tỉnh có nước sinh hoạt HVS đạt 70%.
 Người dân nông thôn hiện còn sử dụng các nguồn nước tự nhiên từ sông, ngòi, suối, nước lẫn từ các khe núi

HẠ TẦNG Y TẾ

Theo số liệu thống kê năm 2010, toàn tỉnh hiện có 45 cơ sở y tế có giường bệnh với 1744 giường bệnh. Trong đó tuyến tỉnh có 9 cơ sở với 779 giường bệnh, tuyến huyện có 27 cơ sở (8 bệnh viên đa khoa huyện và 19 phòng khám đa khoa khu vực) với 735 giường bệnh, y tế các ngành quản lý có 8 cơ sở với 200 giường bệnh, y tế tư nhân có 1 cơ sở với 30 giường bệnh. Bên cạnh đó 180 xã phường có trạm y tế với 993 giường bệnh
Tỷ lệ giường bệnh/10.000 dân là 33,35/10.000 dân. Tổng số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế là 141 xã, đạt tỷ lệ 83,33%. Tổng số cán bộ y tế là 3.113 người. Tỷ lệ bác sỹ: 6,8 bác sỹ/10.000 dân.
            Hệ thống các trang thiết bị ngành y tế tại các bệnh viện đã được đầu tư nâng cấp, song còn thiếu các dịch vụ khám chữa bệnh, chất lượng cao, thiếu cán bộ có khả năng vận hành các trang thiết bị y tế hiện đại. Các trạm y tế xã còn thiếu cả đội ngũ cán bộ y tế và các trang thiết bị cần thiết phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân.
HẠ TẦNG GIÁO DỤC
Năm học 2011-2012: Toàn tỉnh có 587 cơ sở GDMN, phổ thông, thường xuyên và GDCN; trong đó có 573 trường mầm non, phổ thông, thường xuyên với 6658 nhóm, lớp; 178.787 cháu mầm non, học sinh phổ thông, học viên bổ túc THPT.
Trường chuyên nghiệp gồm 3 trường cao đẳng, 4 trường trung học chuyên nghiệp, 1 trường trung cấp nghề.
Số xã, phường phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi là 169/180 xã, phường, thị trấn, đạt 93,9%. Tỉnh được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi năm 2010. Số trường đạt chuẩn quốc gia là 114 trường, đạt tỷ lệ 20,2%.
Số phòng học đã đủ đảm bảo thực hiện học 2 ca, chất lượng thiết bị giáo dục cũng như chất lượng đội ngũ giáo viên từng bước được nâng lên nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục.
Về đội đội ngũ cán bộ: Toàn ngành hiện có 14.700 lao động. Về cơ bản đội ngũ trong toàn ngành đảm bảo đủ số lượng để thực hiện công tác quản lý, giảng dạy tại các cơ sở trường học.
Hiện nay toàn ngành có 41% trường mầm non, 87% trường tiểu học, 90% trường THCS, 100% trường THPT, 100% TTGDTX – HNDN có máy tính phục vụ công tác quản lý giáo dục. Tất cả phòng Giáo dục và Đào tạo, trường THPT, trung tâm GDTX – HNDN, 52% trường THCS, 38% trường tiểu học, 17% trường mầm non đã kết nối Internet ADSL phục vụ công tác quản lý và giảng dạy.
             Nhìn chung, cơ sở vật chất các trường học tại các trung tâm đô thị đã được đáp ứng được điều kiện đảm bảo dạy và học, tuy nhiên một số trường học trú cơ sở vật chất vẫn chưa đảm bảo các điều kiện học, ăn, ngủ cho học sinh theo quy định chung.
HẠ TẦNG THÔNG TIN LIÊN LẠC
     Hệ thống cơ sở vật chất ngành bưu chính viễn thông liên tục được đầu tư nâng cấp, đáp ứng kịp thời nhu cầu thông tin liên lạc của mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu, đồng thời phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Mạng lưới thông tin nội bộ 100% đã được số hóa, 9/9 huyện, thị, thành phố có tuyến viba và tổng đài điện tử tự động.
Tổng số điện thoại trên toàn tỉnh là 314.591 đạt mật độ trung bình 42  máy/100 dân bao gồm: Điện thoại cố định: 110.400 TB; Di động trả sau: 32.891 TB; Di động trả trước: 172.300 TB.
Tổng số số thuê bao internet 31.650 thuê bao, đạt mật độ 4,2 thuê bao/100 dân trong đó: Thuê bao internet tốc độ cao ADSL: 16.473 TB; Thuê bao internet cáp quang FTTH: 115 TB; Truy nhập internet không dây tốc độ cao USB 3G: 4.921 TB; Thuê bao truy nhập internet qua điện thoại di động: 10.975 TB; Thuê bao MyTV: 4.610 TB; Đại lý internet:  149 Đại lý
Tổng số trạm BTS: 638 trạm (Trong đó: BTS-2G là 343 trạm; BTS-3G kết hợp 2G là 278 trạm và 17 trạm BTS-3G.)
           Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát, duy trì tốt với tổng số 194 điểm phục vụ. Trong đó Bưu điện tỉnh (doanh nghiệp chủ đạo cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát với 30 điểm bưu cục, 153 điểm bưu điện văn hóa xã, 10 điểm đại lý và ki ốt) và Bưu chính quân đội (chỉ hoạt động trên địa bàn thành phố Yên Bái với 01 điểm bưu cục). Mạng đường thư trên địa bàn tỉnh có 6 tuyến/383 km đường thư cấp 2, 103/1561 đường thư cấp 3 của Bưu điện và 2 tuyến/34km của Bưu chính Viettel, đảm bảo 154/159 xã có báo đến trong ngày.
Yên Bái – Địa chất và các dấu tích cổ
Các vùng đất tạo nên tỉnh Yên Bái về phương diện địa chất là tối cổ. Vào thời kỳ tiền Cambri, các đá cổ nhất đã nhô lên dọc lưu vực sông Hồng (đá phiến kết tinh hoặc biến chất phức hệ sông Hồng, đá phiến biến chất tuổi Thái Cổ và Nguyên Sinh, tồn tại trên 1.200 triệu năm) phân thành hai dải nằm giữa sông Hồng và sông Lô từ Lào Cai về Yên Bái và dọc 2 bờ sông Chảy. Ngoài đất đá cổ sinh, trung sinh còn có đất đá tân sinh - bao gồm hai kỷ đệ tam và đệ tứ, có tuổi khoảng 50 triệu năm, phân bố dọc sông Hồng, sông Lô.
Vào cuối Cambri sớm, chuyển động nâng đã diễn ra trong phạm vi khu vực. Ở đây, chu kỳ trầm tích từ Cambri đến Ôđôvic sớm tạo ra lớp cuội sỏi kết ở nhiều nơi trên dãy Hoàng Liên Sơn. Bước sang giai đoạn Ôđôvic - Silua, chế độ kiến tạo ngày càng bị phân dị mạnh mẽ hơn. Các vùng đất tạo nên Yên Bái nằm trong miền uốn nếp Bắc Bộ, hệ uốn nếp Tây Bắc, đới phức nếp lồi sông Hồng kéo thành một dải từ biên giới Việt Trung tới Việt Trì thì chìm xuống dưới các lớp phủ đệ tứ của đới Hà Nội, ở phía Tây Nam còn có máng chồng Tú Lệ và dưới Nam có võng Sông Đà.
Trong thời kỳ vận động tạo núi, các trầm tích lắng đọng đã tạo ra khu vực  này những nếp uống khổng lồ kèm theo hàng loạt những đứt gãy chờm nghịch làm cho đá vôi tầng giữa có tuổi cổ hơn lại nằm chờm lên đá phiến - đá vôi tầng trên có tuổi trẻ hơn. Thời kỳ tạo núi, xuất hiện nhiều hiện tượng xâm nhập mắc ma làm cho đá trong vùng bị biến chất và đến đại trung sinh, cách đây 30 triệu năm, quá trình này coi như đã chấm dứt. Tuy các khối đá xâm nhập vẫn còn hung hãn tìm cách chọc xiên qua nhiều nơi ở dải Hoàng Liên Sơn và xà Phình - Púng Luông. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, các đá này đều có lớp vỏ phong hóa khá dày ở chân núi. Các sườn dốc, nước bề mặt hoạt động mạnh đã làm cho đá gốc lộ trơ trụi khiến cho đỉnh núi lởm chởm như răng cưa.
Đến vận động tạo núi tân sinh tuy không mãnh liệt nhưng nó vẫn đủ mạnh để đội cao chỗ này, làm đứt gãy chỗ khác. Sông suối bị đào xẻ xuống rất sâu. Các vận động tạo núi và đặc tính của đá không đồng nhất trên những khoảng ngắn càng làm cho hướng và chiều rộng của thung lũng thay đổi một cách bất ngờ.
Nhìn chung rừng ở đây xuất hiện nhiều dạng khá đặc sắc. Nhiều loại cây lẽ ra chỉ thấy ở phương Nam nhưng cũng có mặt ở đây như gụ, săng lẻ, kền kền. Từ độ cao 700 - 1.800m rừng á nhiệt đới núi cao đã xuất hiện những loại cây họ sồi, dẻ và họ dổi cùng một số cây lá kim. Ở những vùng có khí hậu khô hơn thì rừng bớt rậm rạp và thường rụng lá vào mùa hanh. Lên cao hơn nữa là rừng lãnh sam.
Động vật khá phong phú với sơn dương, mèo rừng, gấu, nai, hoẵng, hổ, báo... Trong các loại hóa thạch tìm được ở Yên Bái, ta còn thấy có voi răng kiếm, gấu tre, đười ươi, khỉ, vượn nhím, dúi, chuột, mèo, chó, lợn, vui, bò rừng.
Vào thời cánh tân, Việt Nam là khu vực lục địa nối liền với vùng đảo Đông Nam Á - một trong các khu vực có khả năng chứng kiến quá trình chuyển biến từ vượn thành người.
Từ tháng 10/963 đến tháng 12/1964, các nhà khảo cổ học Việt Nam có sự tham gia của chuyên gia cộng hòa Dân chủ Đức - Tiến sỹ H. DKahlke đã phát hiện và khai quật di chỉ hang Hùm (Tân Lập - Lục Yên). Hang Hùm thuộc sơn phận làng Hùm, còn được gọi là Ma Mút, kết quả khai quật cho thấy ở đây có 2 thời kỳ trầm đọng khác nhau: Thời kỳ thứ nhất thuộc hậu kỳ Cánh tân với trầm tích khá rắn màu vàng nhạt; thời kỳ thứ hai thuộc giai đoạn đầu của hậu kỳ Cánh tân với trầm tích không rắn bằng. Giữa đó là thời kỳ xói mòn mạnh cửa sông.
Tại hang Hùm, hàng ngàn hóa thạch của 30 loài động vật được phát hiện trong đó đặc biệt có 3 chiếc răng hàm của người khôn ngoan (Hômô sapiens) cùng các hóa thạch thuộc họ đười ươi (Pông Pygmacus Weidencei Chi HOOI - JHER) các hóa thạch thuộc họ voi răng kiếm (Stegoden orien - talis OWEN), các hóa thạch của báo gấm thuộc họ mèo (Néofilis rebulosa of promigchic HEMMER và V.KOENIG SWALD...).
Trong số mấy ngàn hóa thạch, người ta thấy vắng mặt gấu tre (Ailuropoda mela noleuca fovealis MATTHEW&GRANGER). Tuy thế, hang Hùm vẫn được coi là trung điểm giao lưu của nhiều động vật, thực vật. Việc nghiên cứu quần thể động vật ở đây có tầm quan trọng rất lớn. Việc tìm thấy những chiếc răng hàm của người khôn ngoan sớm đã xác nhận thời đại sơ kỳ đá cũ đã tồn tại và phát triển trên vùng đất của người Yên Bái ngày nay.

Tại hang dưới Thẩm Thoóng (Thượng Bằng La), các nhà khảo cổ học đã phát hiện trong trầm tích có niên đại Cánh tân một công cụ cùng một số hóa thạch của lợn rừng, lợn nòi, hươu... và cho rằng rất gần gũi với hang Hùm.
Từ năm 1979 trở đi, hàng loạt các điểm di tích thuộc văn hóa Sơn Vi được phát hiện với di tích mở đầu là đồi Bách Lẫm (Thị xã Yên Bái). Đồi Bách Lẫm là một đồi đất có độ cao trên 20m, nằm sát mép sông Hồng ớ phía Đông Nam thị xã Yên Bái. Tại đây cuối năm 1979 đã phát hiện được 13 di vật của văn hóa Sơn Vi. Từ đó đến nay đã thu được trên 400 di vật gồm công cụ, phế vật, mảnh tước hạch cuội... Phản ánh đây là vùng cư trú và sản xuất công cụ thời hậu kỳ đá cũ.
Cho đến nay, trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã phát hiện được gần 50 điểm di tích của văn hóa Sơn Vi, tập trung chủ yếu dọc thung lũng sông Hồng. Các loại hình công cụ đặc trưng của văn hóa Sơn Vi ở Yên Bái là công cụ rìu lưỡi dọc, rìu lưỡi ngang, mũi nhọn, công cụ mảnh tước.... Với kỹ thuật ghè đẽo trực tiếp từ chỗ chỉ ghè vài nhát thô sơ, tạo ra rìa tác dụng ở một hoặc hai cạnh viên cuội để sử dụng trong lao động. Các điểm tiêu biểu ngoài Bách Lẫm có: Xóm Soi (Giới Phiên), Đá Bia (Minh Bảo), Lương Thịnh III (Tân Thịnh), Khe Quỷ (Yên Hợp), bến Mậu A (Mậu A), Đào Thịnh...
Tại hang Nậm Tốc Lù (Cảm Nhân - Yên Bình) nằm trên núi đá vôi theo hướng bắc nam ở độ cao 50m so với mặt thung lũng cũng tìm thấy một số công cụ thuộc văn hóa Hòa Bình.
Như vậy cùng với việc phát hiện hóa thạch răng người cổ, xương răng động vật thế Cánh tân (voi răng kiếm, gấu tre, đười ươi lùn) ở Thầm Ồm - Nghệ An, việc phát hiện răng người khôn ở hang Hùm đã giúp giới sử học Việt Nam đặt ra giả thuyết. Nếu đúng như vậy thì người hiện đại đã xuất hiện rất sớm ở Việt Nam. Lớp trầm tích hang Hùm có niên đại từ 14 đến 8 vạn năm.
Sau hàng chục vạn năm sử dụng công cụ đá cuội, con người đã biết ghè đẽo rộng khắp trên một mặt viên cuội, còn mặt kia giữ nguyên, tạo ra một đặc trưng mới được gọi là văn hóa Hòa Bình.
Văn hóa Hòa Bình xét về mặt địa chất là giai đoạn lịch sử vắt ngang từ cuối Pleixtocene sang đầu Holocene là cầu nối từ hậu kỳ đá cũ sang đá mới. Những dấu tích của văn hóa Hòa Bình phát hiện được ở Yên Bái tuy chưa nhiều, song nó có giá trị xác định sự hiện diện của cư dân văn hóa Hòa bình đã tồn tại ở đây, nó góp phần nối liền văn hóa hậu kỳ đá cũ sang thời đại đá mới.
Văn hóa đá mới ở Yên Bái: trong khi chưa tìm thấy các dấu tích của sơ kỳ đá mới (văn hóa Bắc Sơn) thì dường như lại tìm được khá nhiều các dấu tích của giai đoạn hậu kỳ đá mới. Cho đến nay, gần 40 địa điểm của thời kỳ này đã được tìm thấy trên địa bàn của tỉnh với sự phân bố khá rộng rãi mà trọng tâm vẫn nằm ở lưu vực của sông Hồng và sông Chảy. Đặc trưng nổi bật của hậu kỳ đá mới ở đây là những rìu và bôn có vai hay tứ giác, trong đó rìu bôn có vai chiếm tỷ lệ cao hơn (56/16). Quy mô của nhóm công cụ thuộc loại trung bình và nhỏ tồn tại dưới nhiều kiểu loại khác nhau (hai vai, hai vai kép, 1 vai, có vai có nấc...).
Ngoài rìu bôn, ở đây còn phát hiện được những loại hình dị vật khác như chì lưới đá, dao đá, vòng tay, khuyên tai đá... Phản ánh tính phong phú đa dạng của loại hình dị vật và khẳng định kỹ nghệ chế tác đá ở đây đã đạt tới mức hoàn thiện. Đây cũng chính là thời kỳ lịch sử đầu tiên của dân tộc: Thời đại Hùng Vương và An Dương Vương trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Những dấu tích của thời đại kim khí ở Yên Bái cũng rất phong phú, khá độc đáo trong đó nổi bật lên là những thạp và trống đồng mang phong cách văn hóa Đông Sơn.

- Thạp đồng Đào Thịnh: Ngày 16/9/1960 tại thôn Đống Gianh nằm ở tả ngạn sông Hồng, thuộc xã Đào Thịnh (Trấn Yên) cách thị xã Yên Bái 20 km về phía Bắc và cách mặt nước chừng 2m đã phát hiện được một chiếc thạp đồng - một hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Nếu kể cả lớp đất phủ ở trên, chiếc thạp nằm ở độ sâu 5m. Thạp đồng Đào Thịnh là một chiếc thạp lớn nhất trong sưu tập thạp Việt Nam được biết đến hiện nay. Thạp màu xanh rỉ đồng, nhiều chỗ bị mất hoa văn, đỉnh nắp có một cụm tượng đã bị mất mép, nắp có 4 tượng nam nữ giao hợp chỉ còn hai, nắp thạp hình khum, có đường kính 68cm, cao 17,2cm, bị vỡ nhiều chỗ, có hai quai (bị mất một). Nắp và thân đều có hai cặp quai hình mui thuyền trang trí hoa văn sóng nước. Quai ở thân cách miệng 10,5 cm; quai rộng 2,5cm; đường kính miệng 64cm, nơi phình ra nhất 70cm, đường kính đáy 58cm, cao thân 82 cm, gờ cao 1,5cm. Toàn thạp cao 97,7cm, nặng 76kg.
- Thạp đồng Hợp Minh: Nặng 13,5kg, cao toàn bộ 47,4cm, cao phần thân thạp 41,5cm, đường kính miệng 34,4, đường kính đáy 32,5cm, thân hơi phình ra, thân có dáng thẳng, cân đối, có hai quai hình chữ U ngược.
Ngoài thạp đồng và bộ hài cốt còn thu được đĩa đồng 3 chân, rìu đồng, dao găm đồng, quả thạc đồng, khuyên tai 4 mấu, 3 mảnh gốm miết láng đen. Đặc biệt còn tìm thấy dấu vết của sợi dệt, nan đan.
Thạp đồng Hợp Minh nặng 13,5kg; cao 47,4cm; đường kính miệng 33,6cm; đường kính đáy 34,9cm. Thân phía trên của thạp hơi phình, phía dưới hơi thót, chân đế thẳng, dáng cân đối có 2 quai hình chữ U ngược.
Điều đáng chú ý ở đây là lần đầu tiên ở Việt Nam đã phát hiện được di cốt của người cổ còn nguyện vẹn chôn trong thạp. Di cốt này được giám định là một em bé gái khoảng 4 - 4,5 tuổi.
Những mô típ văn hóa trên thạp Hợp Minh cũng rất tiêu biểu, trên nắp thạp có 4 tượng dạng “chim vịt” gần rìa nắp. Thân thạp có 37 vòng rộng hẹp khác nhau, trong đó có 18 vòng hoa văn, được chia làm 3 nhóm: Nhóm 1 có 4 cụm hoa văn hình học; Nhóm 2 có 2 vòng hoa văn tả động vật, trên gần miệng thạp là một đàn chim mỏ dài, đuôi xòe trong tư thế co cổ, gồm 19 con. Cả chim và thú đều bay hoặc chạy theo chiều từ trái sang phải; Nhóm 3 có hai vòng hoa văn tả cảnh sinh hoạt của người, vòng trên mô tả một lễ hội trong đó có người hóa trang lông chim múa hát, đánh trống, giã gạo... có cả mô hình nhà sàn, hình thuyền, nhà kho, hình chim, gà trống... Vòng dưới là hình bốn thuyền mũi cong, trên đó có người chèo thuyền, người chỉ huy, mỗi thuyền có 5 - 6 người, trên trời có chim bay, dưới nước có vật hình cá sấu, hình rùa.
Cùng với thạp đồng, tại nhiều nơi trên địa bàn của tỉnh đã phát hiện được trống đồng - Một loại hình di vật tiêu biểu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn.
Cũng tại địa điểm phát hiện thạp đồng Đào Thịnh, ngày 25/9/1962, cụ Doãn Văn Thực đã phát hiện ra trống đồng Đào Thịnh và nhiều đồ vật bằng đồng khác (bình, lọ, tượng cóc, quả cân, dao găm, giáo, lưỡi qua) và các đồ trang sức bằng đá, lọ gồm có văn đan. Những hiện vật này được sắp xếp có chủ ý, theo từng loại khác nhau. Ngoài ra trong trống có đất màu đen, lẫn tro than.
Trống đồng Đào Thịnh thuộc loại trống trung bình, mặt còn nguyên vẹn, tang mất một phần, lưng còn một ít và không còn phần chân, không rõ chiều cao. Trống có 4 đôi quai kép, chỉ còn lại 2 đôi, không có tượng cóc. Mặt trống không chờm khỏi tang, chính giữa là ngôi sao 12 cánh, giữa các cánh là hoa văn hình tam giác có  các đường chéo song song. Từ trong ra ngoài mặt trống có 4 vòng hoa văn. Đường kính mặt trống là 49,5cm; Đường kính tang là 57cm; trống cao còn lại 27cm; Tang trống dày 0,25cm. Hoa văn tang trống chỉ còn 2 vòng là hình tam giác gần đáy quay vào nhau bố trí gần mép trống, còn lại để trơn, có bốn đường chỉ nổi chạy song song quanh tang trống. Hoa văn lưng trống gồm 4 cụm hoa văn dọc, cách đều nhau cao 11,5cm và một cụm hoa văn ngang dưới. Hoa văn đơn giản, chỉ là hài đường hình tam giác gần đáy quay vào nhau.
- Trống đồng làng Vạc Minh (Minh xuân - Lục Yên ) phát hiện ngày 25/5/1978 tại gò làng Vặc. Di vật đào được là chiếc trống đồng không nguyên vẹn, mất chân và phần lớn lưng nên không xác định được chiều cao. Trống có bốn quai, chỉ còn hai quai. Mặt trống còn nguyên vẹn, có ba vết thủng nhỏ gần tâm trống, có 4 tượng cóc nhưng đều mất, chỉ còn lại dấu vết chân, cóc quay ngược chiều quay của kim đồng hồ. Mặt trống chờm khỏi tang 1,5cm; Tang không phình mà hơi đứng, lưng thẳng, phía dưới hơi loe ra. Đường kính mặt 64,5cm; Đường kính tang 61,5cm; Đường kính lưng (phần giáp tang) 52,0cm; Tang cao 14,0cm; Mặt dày 0,45cm; Trống cao toàn bộ còn lại 37cm.
- Trống đồng Mông Sơn (Yên Bình): được tìm thấy ngày 15/3/1984 trên một quả gò thuộc địa phận xã Mông Sơn. Di vật là một chiếc trống chôn ngửa do quá trình mưa gió đã lộ ra một phần thân trống.
Trống không còn nguyên vẹn, 4 tượng cóc đã bị cưa mất 3 còn 1. Chân bị vỡ, mặt bị cắt rời khỏi thân, quai chỉ còn một chiếc, trống thủng nhiều chỗ, mặt trống chờm ra ngoài tang, tang không phình, lưng thẳng, chân hơi choãi. Đường kính mặt 56cm, cao còn lại 30 cm.
Hoa văn mặt trống: trung tâm là ngôi sao 12 cánh, giữa các cánh là văn hóa lông công, ngoài là 11 vòng hoa văn. Trong đó vòng 7 từ trong ra là hình chim cách điệu hình trâm, xen kẽ nhau từng đôi một, chim bay theo ngược chiều kim đồng hồ. Gần mép trống có 4 tượng cóc đơn giản cũng quay ngược chiều kim đồng hồ.
Ngoài các di tích kể trên, tại thị xã Yên Bái còn phát hiện được một số đồ đồng tại khu nghĩa trang thuộc bệnh viện tỉnh (rìu đồng, nồi đồng). Ở Trấn Yên còn phát hiện được rìu đồng, giáo đồng (Quy Mông, Báo Đáp). Khu vực Văn Yên cũng tìm được các rìu lưới xéo, rìu xòe cân, nhiều đồ gốm thuộc các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Mậu, Đường Cồ tại các điểm Yên Hưng, Yên Hợp...
Như vậy là các di tích khảo cổ học thuộc nền văn minh sông Hồng của thời đại Hùng Vương đã có mặt khá dày đặc và đầy đủ trên các vùng đất mà sau này hình thành nên tỉnh Yên Bái. Con người ở đây đã rời hang động trong rừng núi đá vôi xuống cư trú ở vùng đồi gò và bờ bãi ven sông Hồng, sông Chảy. Họ khai thác đất đai ven sông, các bãi trũng cạnh đầm hồ và gò đồi để canh tác theo lối đao canh thủy nậu, đao canh hỏa chủng. Họ dùng rìu đá mài, rìu đồng để cuốc đất. Khi kỹ thuật luyện kim phát triển, xuất hiện thêm lưỡi cày, lưỡi cuốc trong sản xuất. Nhiều đồ dùng bằng đồng, bằng gốm ra đời (thạp, bình, lọ, nồi, âu...)
Cây lúa là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Yên Bái thời đại Hùng Vương. Nhiều hoa văn trang trí trên trống đồng, thạp đồng tìm thấy ở vùng này với hình tượng bông lúa, săn bắt và hái lượm. Có nhiều khả năng cư dân ở đây đã biết đến chăn nuôi, đánh cá và trồng một số loại cây ăn quả, cây lấy sợi... từ rất sớm.
Nghề đúc đồng khá phát triển. Người thợ đúc ở đây tỏ ra có tay nghề cao khi họ tiến hành đúc thạp đồng Đào Thịnh, thạp đồng Hợp Minh cùng các trống đồng làng Vặc, Mông Sơn, Phù Nham, bản Lải, Đảo Đình. Để có được những báu vật trên, những người thợ này đã phải dựng lên nhiều lò nấu đồng, tạo ra nhiều khuôn đúc bằng đất khá lớn.
Nghề gốm cũng phát triển. Nhiều công cụ và đồ trang sức chế tạo từ đá spilitquacdit, amphibôlit và neepherit là nguồn nguyên liệu sẵn có ở địa phương. Họ dùng ngay các công cụ bằng đá để cưa, khoan, tiện mài và đánh bóng.
Những di vật đã tìm được trên đất Yên Bái cho thấy trình độ hiểu biết về nghệ thuật của con người trong thời đại Hùng Vương khá cao. Ngoài lối trang trí bằng hóa văn kỷ hà thì mảng nghệ thuật vẽ hình theo chủ đề khá phát triển. Con người thể hiện trên thạp đồng, trống đồng hòa vào giới động vật xung quanh (hươu, hổ, chim, cá) hoặc các dụng cụ (thuyền bè, giáo, rìu, cung tên) các cảnh vui chơi....
Những bức tượng trên thạp và trống đồng của các nghệ nhân thời đại Hùng Vương để lại là những chuẩn mực về phản ánh hiện thực của thời tiền sử qua nghệ thuật chạm khắc.
Từ những di chỉ, di vật đã được phát hiện bước đầu cho chúng ta nhận biết về một chặng đường kéo dài hàng chục vạn năm, từ thời đại đồ đá cũ đến thời đại kim khí trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Chứng tỏ Yên Bái nằm trong khu vực địa bàn sinh tồn và phát triển liên tục của người Việt cổ trên đất nước ta.
  Lịch sử Yên Bái
Từ rất xa xưa Yên Bái đã là một bộ phận của Tổ quốc. Thời các vua Hùng, Yên Bái thuộc Tân Hưng, thời Lý thuộc Châu Đăng, thời Trần trong lộ Quy Hóa, thời Lê đến thời Nguyễn nằm trong phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.
            Vào cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp tiến hành “bình định” nước ta, chúng đặt Yên Bái thuộc các đạo quan binh (1891 – 1900). Ngày 11- 4 - 1900, thực dân Pháp thành lập tỉnh Yên Bái gồm có phủ Trấn Yên, hai châu Văn Chấn, Văn Bàn và thị xã tỉnh lỵ đặt tại làng Yên Bái. Từ năm 1910 – 1920, Pháp chuyển châu Lục Yên (tỉnh Tuyên Quang) và châu Than Uyên (tỉnh Lai Châu) vào tỉnh Yên Bái. Từ đó cho đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, địa dư và các đơn vị hành chính tỉnh Yên Bái không thay đổi.
            Tháng 5 – 1955, các châu Văn Chấn, Than Uyên chuyển thuộc khu tự trị Thái – Mèo; một phần huyện Than Uyên và các xã Nậm Có, Khau Phạ (Văn Chấn) được tách ra thành lập châu Mù Cang Chải. Tháng 6 – 1956, huyện Yên Bình (tỉnh Tuyên Quang) sáp nhập vào tỉnh Yên Bái. Tháng 10 – 1962, Quốc hội quyết định đổi tên khu tự trị Thái – Mèo thành khu tự trị Tây Bắc và thành lập các tỉnh trực thuộc. Ngày 24 – 12 – 1962, tỉnh Nghĩa Lộ (thuộc khu tự trị Tây Bắc) chính thức được thành lập gồm các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phù Yên. Năm 1964, một phần huyện Văn Chấn được tách ra thành lập huyện Trạm Tấu. Đầu năm 1965, khu vực thượng huyện Lục Yên được tách ra thành  lập huyện Văn Yên. Tháng 10-1971, Chính phủ thành lập thị xã Nghĩa Lộ. Ngày 3-1-1976, hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ hai huyện Bắc Yên và Phù Yên chuyển thuộc tỉnh Sơn La) và Lào Cai thành tỉnh Hoàng Liên Sơn.
            Ngày 1-10-1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Các huyện Than Uyên, Văn Bàn và Bảo Yên trước đây thuộc tỉnh Yên Bái chuyển thuộc tỉnh Lào Cai.
            Truyền thống văn hóa: các phát hiện di cốt người hiện đại có niên đại 8-14 vạn năm ở hang Hùm (Lục Yên), thạp đồng Đào Thịnh, thạp đồng Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Phù Nham (Văn Chấn), Mông Sơn (Yên Bình), Khai Xuân (Lục Yên) và nhiều công cụ bằng đá, bằng đồng khẳng định mảnh đất Yên Bái là địa bàn sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hóa phát triển liên tục và khá rực rỡ.
            Yên Bái cũng là vùng có nhiều dân tộc sinh sống lâu đời, hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1258 nhân dân các vùng Văn Chấn, Trấn Yên đã tham gia đội quân của tù trưởng Hà Bổng, trại chủ Quy Hóa chiến đấu chống giặc Mông-Nguyên khi chúng sang xâm lược nước ta lân fth]s nhất. Năm 1285, nhân dân châu Thu Vật (Yên Bình) và các vùng xung quanh đã ủng hộ, giúp đỡ đạo quân của tướng Trần Nhật Duật chặn đánh quân Nguyên Mông quyết liệt, làm chậm bước tiến của chúng về kinh thành Thăng Long.
            Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX nhân dân các dân tộc Yên Bái đã góp phần không nhỏ bảo vệ triều Lê, chống họ Mạc cát cứ và sự cướp bóc của “giặc giã”.
            Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng, nước ta trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến. Đầu nmaw 1886, quân Pháp đánh chiếm Yên Bái. Tổng đốc Hưng Hóa Nguyễn Quang Bích, bố chánh Nguyễn Văn Giáp phối hợp cùng các lãnh đạo địa phương như Vương Văn Doãn phối hợp cùng các lãnh đạo địa phương như Vương Văn Doãn, Đặng Đình Tế, Phạm Thọ, Đặng Tiến Lộc, Đổng Phúc Thịnh tổ chức đánh chặn địch quyết liệt; xây dựng căn cứ chiến đấu ở Tú Lệ (Văn Chấn), làng Vần (Trấn Yên) gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại. Ngày 19-10-1889, nghĩa quân đánh tan cả đoàn thuyền địch gồm 13 chiếc trên sông Hồng, đoạn giữa Trái Hút và Bảo Hà.
            Từ Năm 1886 đến năm 1898, các hoạt động bất hợp tác với giặc, nhiều cuộc khởi nghĩa nhỏ liên tục nổ ra khắp các vùng Trấn Yên, Văn Chấn, Lục Yên, Yên Bình, gây ra cho thực dân Pháp nhiều khó khăn trong việc thiết lập bộ máy thống trị và kiểm soát các tổng, xã.
            Năm 1913-1914, cuộc khởi nghĩa do Triệu Tài Lộc, Triệu Kiến Tiên và một số thủ lĩnh khác tổ chức được đông đảo người Dao, Tày, Kinh tham gia, ủng hộ. Từ cơ sở đầu tiên ở tổng Trúc Lâu, phong trào lan rộng khắp châu Lục Yên, phủ Trấn Yên, phủ Yên Bình với tổng số 1.414 người. Nghĩa quân đã tiến công đồn Trái Hút (19-10-1914), đồn Bảo Hà (21-10-1914), đồn Lục Yên (22-10-1914). Nhưng do tổ chức, phối hợp thiếu chặt chẽ, trang bị vũ khí lạc hậu, thiếu thốn cho nên các cuộc tiến công không giành được thắng lợi. Thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa, bắt hàng trăm người, trong đó có rất nhiều phụ nữ, xử tử 67 người (39 người ở nghĩa địa Tây Yên Bái, 28 người ở Phú Thọ). Đây là sự kiện tiêu biểu khẳng định lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quận khởi của nhân dân các dân tộc Yên Bái.
            Khi thực dân Pháp tiến hành khai thác, cướp bóc thuộc địa, đặc biệt là việc chúng cướp ruộng đất, lập đồn điền, nông dân các xã Mông Sơn, Ẩm Phước (phủ Yên Bình), Nga Quán, Cổ Phúc (phủ Trấn Yên) và nhiều nơi khác đã liên tục đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, cướp ruộng đất, làm cho thực dân Pháp rất lúng túng, lo sợ và bất ổn định.
            Trong bối cảnh đó, đầu năm 1930 trên địa bàn Yên Bái đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của tổ chức Việt Nam Quóc dân Đảng, do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa không thành, do không đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân bị áp bức đứng lên giải phóng. Mặc dù bị thất bại, nhưng tinh thần yêu nước, bất khuất, kiên cường của các nghĩa sĩ trước sự khủng bố, đàn áp dã man của kẻ thù đã thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc Yên Bái đứng lên đấu tranh giành độc lập. Đó là những sự kiện lịch sử tiêu biểu, thể hiện truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết quật khởi của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái. Truyền thống đó được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
            Mùa xuân 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã mở ra một trang sử mới cho lịch sử cách mạng Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước của nhân dân các dân tộc Yên Bái.
            Đầu những năm 40 của thế kỷ XX, những cán bộ cách mạng của Xứ ủy Bắc Kỳ được cử lên Yên Bái hoạt động và đã xây dựng được một số cơ sở cách mạng ở huyện Trấn Yên và thị xã Yên Bái. Với truyền thống yêu nước, tinh thần quật cường chống ngoại xâm của nhân dân các dân tộc Yên Bái từ tháng 10-1944 đến đầu năm 1945, nhiều cơ sở cách mạng được xây dựng, phát triển ở các huyện trong tỉnh, các tổ chức cứu quốc được thành lập, tập hợp hàng ngàn hội viên. Dau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), khí thế cách mạng của quần chúng khắp nơi trong tỉnh dâng cao. Để đẩy mạnh phong trào cách mạng ở Yên Bái, ngày 7-5-1945, Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở thị xã Yên Bái. Ngày 30-6-1945, Xứ ủy Bắc Kỳ đã quyết định thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái – Phú Thọ do đồng chí Ngô Minh Loan làm bí thư. Sự kiện thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Yên Bái – Phú Thọ đã mở ra một bước ngoạt mới cho phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương.
            Cùng với cả nước, từ thân phận của dân tộc đói nghèo, lạc hậu bị áp bức, nô lệ, cuộc Cách mạng Tháng tám năm 1945 đã thổi bùng lên ngọn lửa Yêu nước, tinh thần bất khuất, quật cường của đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái.
            Ngày 22-8-1945, tại vườn hoa tỉnh lỵ Yên Bái gần một vạn người về dự mít tinh đã chừng kiến sự kiện lịch sử quan trọng: Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái được thành lập, tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, công bố chính sách của Mặt trận Việt Minh, kêu gọi nhân dân các dân tộc trong tỉnh đoàn kết, ủng hộ giúp đỡ, bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ thành quả cách mạng, vượt mọi khó khăn, gian khổ từng bước xây dựng cuộc sống đổi mới. Yên Bái bước sang trang sử mới.
            Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc phát huy chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đoàn kết, thống nhất phấn đấu thực hiện lý tưởng cao cả của Đảng, của Bác Hồ kính yêu: hòa bình, độc lập, tự do, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
            Những ngày đầu thành lập chính quyền cách mạng của tỉnh, tiếp thu gia tài đổ nát do chế độ cũ để lại: công nghiệp phá sản, nông nghiệp đình đốn, tài chính kiệt quệ, nạn đói đe dọa trầm trọng, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội nặng nề...nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái, chính quyền công nông non trẻ vẫn đứng vững, chống lại mọi âm mưu và thủ đoạn phá hoại của bọn phản cách mạng; lãnh đạo nhân dân các dân tộc động viên cao độ sức người, sức giải phóng quê hương, cùng cả nước góp phần làm nên Chiến dịch Điện Biên Phủ, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc.
            Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Yên Bái tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường trong chiến tranh cách mạng, đem hết sức lực, trí tuệ vượt qua khó khăn, chiến đấu bảo vệ quê hương, khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh; cùng cả nước chi viện cho Miền Nam, góp phần làm nên thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, trước bộn bề khó khăn cả trong nước và quan hệ quốc tế vào thời điểm đó, cùng với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trên cả nước, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân trong tỉnh từng bước giành được những thành tựu quan trọng, đẩy lùi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đưa cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
            Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt từ khi tái lập tỉnh (1991) mặc dù phải đối mặt với những khó khăn, thách thức, trước tình hình thế giới diễn ra phức tạp, cùng với những khó khăn của một tỉnh miền núi nghèo, kinh tế chậm phát triển, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém, trình độ dân trí thấp và không đồng đều, đời sống của nhân dân các dân tộc còn nhiều khó khăn; song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, tự lực cánh sinh, huy động tối đa nội lực, kiên quyết chống lại tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, bao cấp, huy động và tranh thủ mọi nguồn lực để đầu tư phát triển, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc, lấy công nghiệp và du lịch làm khâu đột phá để thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
          Qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã hun đúc nên những truyền thống tốt đẹp là lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, tình đoàn kết dân tộc, đức tính lao động cần cù, sáng tạo. Đây là những giá trị tinh thần bền vững mà Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã kế thừa, phát huy cao độ trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa trên quê hương mình.
        
TÀI NGUYÊN RỪNG VÀ THẢM THỰC VẬT
  

Thảm thực vật rừng:
            Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, giữa hai vùng sinh thái Đông Bắc và Tây Bắc Việt Nam, với nhiệt độ trung bình từ 22-230C, lớp vỏ phong hóa dày đã tạo ra thảm thực vật phong phú về chủng loại và  giàu về trữ lượng. Do điều kiện địa hình và khí hậu có sự chênh lệch giữa các vùng nên thực vật Yên Bái được chia ra các vành đai thực vật khác nhau với các kiểu rừng chủ yếu sau.
Vành đai rừng nhiệt đới:
Vùng đồi núi thấp (độ cao dưới 600-700m) đất đai rừng này phân bố ở khu vực vùng núi thấp thuộc thung lũng sông Hồng, sông Chảy, trong các bồn địa Văn Chấn, Lục Yên có đặc điểm: rừng kín, thường xanh quanh năm. Phần lớn là rừng thứ sinh,  tầng ưu thế sinh thái không khép tán, cây thân gỗ, nhiều dây leo chằng chịt, có nhiều tầng nhưng phân tầng không rõ. Thành phần thực vật chủ yếu gồm các loại cây họ sấu trò xanh, sếu tán, sui... dây leo có sóng mây, dưới tán rừng còn có cây họ chuối, ráy, hoàng tinh...
Vành đai rừng á nhiệt đới:
Núi cao trung bình (600-700m đến 1.700 - 1.800m). Đất đai rừng này phân bổ ở khu vực đỉnh núi Con Voi, các bậc thềm của vùng núi cao ở huyện Trạm Tấu, Văn Chấn, Mù Cang Chải, vành đai này có đặc điểm:
Thành phần thực vật khá đơn giản so với vành đai nhiệt đới, thường có cây thấp, cây bụi, thảm cỏ xanh. Đặc biệt dây leo cũng ít hẳn và thường ngắn, nhỏ, chỉ  quấn quanh cây thân gỗ, thực vật phụ sinh phát triển mạnh bám vào thân, cành, lá cây khác ở trên tất cả các tầng và nguy cơ cả trên mặt đất, phần lớn là họ dương xỉ, họ lan, họ ráy... cây rừng chủ yếu là: sồi, dẻ, càng lồ... các cây dược liệu như tam thất, dương quy, hoàng bá, đỗ trọng....
Vành đai rừng cận nhiệt đới:
Núi cao (trên 1.700m), vành đai này phân bố ở vùng núi cao thuộc dãy Hoàng Liên - Pú Luông, Phu Sa Phìn, Phu Chiêm Ban. Đai rừng này có quần thể thể thực vật mang nhiều đặc tính của thực vật vùng ôn đới, thực vật rừng là rừng hỗn giao giữa lá cây rộng và lá cây kim như pơmu, thông, sa mộc, liễu sam; cây lá rộng có sồi, dẻ, đỗ quyên. Rừng thường có một hoặc hai tầng, trên, thân, cành, lá  và cả mặt đất có rêu, dương sỉ, địa y như thành lớp dày.
Ngoài 3 đai rừng chính ở trên, thảm thực vật ở Yên Bái còn có các kiểu rừng đặc biệt sau:
               Rừng nhiệt đới trên núi đá vôi: Với đặc trưng là có những cây thân gỗ cứng vật quý như ngiến, đinh, chò chỉ, dây leo như song, mây, cây tầm gửi như phong lan mọc trên thân cây to, ngoài ra còn có chuối, ráy. Loại rừng này phân bố ở khu vực núi đá vôi ven sông Chảy như ở huyện Lục Yên và bồn địa Văn Chấn .
Rừng tre nứa trên đất phát triển trên đá cuội kết, phù sa cổ: là loại rừng thuần vàu, nứa; trong điều kiện ít ẩm, khô, thành phần cơ giới nhẹ, tầng đất mỏng, nghèo chất dinh dưỡng; tỷ lệ mùn thấp, nếu khai thác kiệt sẽ thoái hóa trở nên cằn cỗi, độ che phủ kém, đất có sự rửa trôi về mùa mưa, thường phân bố ở các xã Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Hợp huyện Văn Yên; xã Y Can, Âu Lâu huyện Trấn Yên; Động Quan, Trung Tâm của huyện Lục Yên và rải rác ở một số nơi khác.
Thảm thực vật có vai tro rất quan trọng trong việc giữ đất và giữ cho cân bằng sinh thái, bảo vệ môi sinh. Song do phá rừng làm nương rẫy, khai gỗ không hợp lý làm cho thảm thực vật rừng bị phá, đất mặt bị rửa trôi, độ phì của đất giảm nhanh chóng, làm cho đất khô, chai cứng, thậm chí còn đến tích tụ kết vón, đá ong theo thời gian rất khó phục hồi lại.
Tài nguyên rừng:
            Rừng và đất rừng là tài nguyên và tiềm năng của tỉnh. Với hệ thống thực vật rất phong phú và đa dạng, gồm nhiều loại, nhiều họ khác nnhau, có đủ các lâm sản quý hiếm; các cây dược liệu quý, các cây lâm sản khác như tre, nứa, vầu, tài nguyên rừng phân chia theo chức năng sử dụng:
Vùng rừng phòng hộ :
Vùng rừng phòng hộ sông Đà gồm các huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu và một phần Văn Chấn.
Vùng rừng phòng hộ sông Hồng: Gồm các huyện Trấn Yên, Văn Yên, Văn Chấn và thành phố Yên Bái.
Vùng rừng phòng hộ sông Chảy: gồm các huyện Yên Bình, Lục Yên.
Vùng rừng sản xuất:
Vùng rừng sản xuất nguyên liệu giấy gồm các huyện: Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên, vùng thấp Văn Yên, vùng ngoài Văn Chấn.
Vùng trồng cây đặc sản quế: Tập trung ở huyện Văn Yên, Trấn Yên và phân bố rải rác ở các huyện khác: Văn Chấn, thị xã Yên Bái, Yên Bình, Lục Yên.
Đất rừng:   
Tính đến tháng 8 năm 2010, diện tích đất có rừng toàn tỉnh Yên Bái đạt 406.230,9 ha, trong đó: rừng tự nhiên 231.563,7 ha, rừng trồng 174.667,1 ha; đạt độ che phủ trên 58,4%.
Trong đó đất rừng quế tập trung có khoảng 20.000 ha.
Đất có rừng của Yên Bái được phân bổ ở các huyện, thị xã trong tỉnh; thực hiện chủ trương đóng cửa rừng của Chính Phủ tinh trạng khai thác trái phép đã được quản lý và giảm đáng kể. Việc khai thác gỗ rừng trồng được tổ chức quản lý theo kế hoạch và thiết kế, không khai thác trắng.
Trữ lượng rừng:
Tổng trữ lượng của các loại rừng của Yên Bái có 14.080,719 m3 gỗ và 114.638.800 cây tre, nứa, vầu các loại (theo số liệu kiểm kê rừng năm 1998).
Theo kết quả kiểm kê rừng tự nhiên của Yên Bái chủ yếu còn ở hai cấp trữ lượng III và IV; cấp trữ lượng III: 151-225 m3/ha, chiếm 18,2%; cấp trữ lượng IV: 76- 150 m3/ha, chiếm 34,2%. Cá biệt có nơi rừng còn đạt 250m3/ha, nhưng không đáng kể vê diện tích. Trữ lượng rừng của Yên Bái tập trung chủ yếu ở các huyện: Văn Yên, Văn Chấn, Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên, Yên Bình và Lục Yên.
Hệ động vật hoang dã:
Hệ động vật hoang dã ở Yên Bái còn đa dạng về thành phần như loại hươu, nai, lợn rừng, tê tê... và các loại côn trùng khác, tập trung chủ yếu ở các dãy núi cao như dãy núi Hoàng Liên, dãy núi Con Voi.
Tóm lại, Yên Bái có tài nguyên rừng với trữ lượng còn lớn, hệ động thực đa dạng và phong phú.

  Yên Bái: Ra quân Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ 2013

Cập nhật lúc: 11:18:20 SA, ngày 19/02/2013
CTTĐT - Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người", sáng 18/2/2013 các địa phương trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã ra quân Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ 2013

* Tại huyện Lục Yên: Dự lễ ra quân Tết trồng cây có các đồng chí Hoàng Văn Vui, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; Bùi Văn Thịnh, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện; Nguyễn Thị Minh Phương, Phó Bí thư thường trực Huyện ủy; các đồng chí trong Ban Thường vụ Huyện ủy, Thường trực HĐND, UBND, UBMTTQ, lãnh đạo các phòng ban, đơn vị, đoàn thể huyện, đông đảo cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ lực lượng vũ trang trong huyện và thị trấn Yên Thế.
Đồng chí Bùi Văn Thịnh, Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện dự lễ ra quân Tết trồng cây
Phong trào Tết trồng cây theo lời kêu gọi của Bác Hồ hằng năm đã được các đơn vị và nhân dân các dân tộc huyện Lục Yên hưởng ứng, tham gia tích cực. Năm 2012, toàn huyện trồng được 2.400 ha rừng, nhờ đó góp phần đưa độ che phủ rừng của huyện đạt trên 66%.
Tại lễ phát động Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Quý Tỵ, đồng chí Bùi Văn Thịnh, Chủ tịch UBND huyện yêu cầu các cấp, các ngành cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, vận động để nhân dân thấy rõ tác dụng của rừng và công tác bảo vệ rừng, trồng cây, trồng rừng gắn liền với phát triển kinh tế- xã hội, ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngay sau lễ phát động Tết trồng cây Xuân Quý Tỵ, các đơn vị đã tham gia trồng trên 100 cây sấu trên tuyến đường nhánh mới mở tại tổ 17, thị trấn Yên Thế, mở đầu cho việc thực hiện mục tiêu trồng mới 2.100 ha rừng tập trung trong năm 2013.
Minh Tuấn – BBT Website Lục Yên
* Tại huyện Trạm Tấu: Với mục  đích làm cho mọi tầng lớp nhân dân tích cực tham gia trồng cây, trồng rừng, bảo vệ rừng góp phần nâng cao tỷ lệ che phủ rừng, cải thiện chất lượng rừng và môi trường sinh thái nâng cao độ che phủ của rừng, làm cho tết trồng cây trở thành hoạt động thường niên mỗi dịp đầu xuân, sáng ngày 18/ 2,  huyện  Trạm Tấu đã phát động tết trồng cây đời nhớ ơn Bác Hồ .
Lãnh đạo huyện Trạm Tấu trồng cây tại lễ phát động
Tham dự lễ phát động có các đồng chí lãnh đạo BTV Huyện ủy-  Thường trực HĐND – UBND huyện,  lãnh đạo và đông đủ cán bộ LLVT,  cán bộ các cơ quan ban ngành trên địa bàn huyện. Thông qua các khẩu hiệu nhân dân các dân tộc huyện Trạm Tấu quyết tâm thực hiện tốt phong trào xanh rừng- xanh đồng- xanh nương rẫy, xây dựng huyện Trạm Tấu phát triển toàn diện bền vững  thân thiện với môi trường. Tại lễ phát động các đồng chí lãnh đạo huyện ủy- HĐND- UBND huyện đã trồng cây tại khu vực nhà máy nước của huyện, ngay sau lễ phát động đồng loạt các cơ quan ban ngành, các xã thị trấn đã phát động trồng cây hưởng ứng tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ.
Cũng nhân dịp này, lãnh đạo huyện Trạm Tấu đã đi kiểm tra tình hình sản xuất vụ xuân tại một số xã trong huyện huyện. Qua kiểm tra cho thấy,  ngay sau tết nguyên đán Quý Tỵ 2013, bà con đã bắt tay vào sản xuất vụ xuân với một không khí khẩn trương, phấn khởi phấn đấu gieo cấy trên 1000 ha lúa xuân trong khung thời vụ tốt nhất .
Thu Hằng - Lộc Chầm -  Đài TT-TH Trạm Tấu
* Tại huyện Trấn Yên: Sáng ngày 18/02/2013, tại tuyến đường cây xăng đi bệnh viện Đa khoa huyện Trấn Yên, huyện Trấn Yên đã tổ chức lễ phát động Tết trồng cây và tổ chức giải thể thao mừng Đảng mừng xuân năm 2013.
Lãnh đạo huyện Trấn Yên dự lễ phát động Tết trồng cây
Năm 2012, nhân dân các dân tộc trong huyện đã trồng được hơn 3.000 ha rừng, sản lượng gỗ khai thác và chế biến hơn 76.000 m3, trong đó cơ cấu rừng trồng chủ yếu là cây nguyên liệu giấy. Bên cạnh đó, nhân dân huyện Trấn Yên còn tích cực trồng những cây có giá trị kinh tế cao và đến nay diện tích cây quế của toàn huyện được nâng lên hơn 8.000ha và hơn 1.000 ha tre măng Bát Độ. Nhiều địa phương trồng rừng đạt và vượt kế hoạch giao như  Hồng Ca, Vân Hội, Việt Hồng, Kiên Thành, Quy Mông, Báo Đáp, Tân Đồng, Lương Thịnh. Qua đây đã duy trì tỷ lệ độ che phủ của rừng đạt 68%, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái, thúc đẩy công nghiệp chế biến gỗ phát triển. Với tinh thần "nhà nhà trồng cây, người người trồng cây", năm 2013 huyện Trấn Yên phấn đấu trồng 2.400 ha rừng các loại, trong đó phấn đấu vụ xuân trồng đạt 70% kế hoạch năm. Để thực hiện được kế hoạch đó, ngay trong ngày 18/2 tất cả các địa phương trong huyện đồng loạt tổ chức lễ phát động trồng cây và ngay trong ngày đầu ra quân Trấn Yên đã trồng được 850 ha rừng tập trung và 185.000 cây phân tán.
Cùng ngày Huyện đoàn Trấn Yên còn phối hợp với Trung tâm Văn hóa và Thể thao tổ chức hội thi kéo co giữa các tổ chức đoàn trong huyện. Được biết, tham gia giải thể thao mừng Đảng mừng xuân này có 21 đoàn với hơn 200 vận động viên là các đoàn viên đang sinh hoạt tại các cơ sở đoàn trong huyện, sau 1 ngày thi đấu nhiệt tình và sôi nổi, Ban tổ chức đã trao các giải nhất, nhì, ba và khuyến khích cho các đội có thành tích xuất sắc trong thi đấu./.
Thanh Hùng - Đài TT-TH Trấn Yên

Chủ trang trại giàu nghị lực

Không cam chịu đói nghèo, sau nhiều đêm suy nghĩ, anh Hoàng Đức Hưởng ở xã Đại Phác, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã mạnh dạn thuê đất, vay tiền của người thân, bạn bè đầu tư xây dựng trang trại phát triển chăn nuôi. Trời không phụ người có tâm, chỉ sau một thời gian ngắn, gia đình anh Hưởng không chỉ đủ ăn, mà còn có bát ăn, bát để, từng bước vươn lên làm giàu bằng chính sức lao động của mình.
Chuồng nuôi lợn siêu nạc của anh Hưởng.

Anh Hưởng tâm sự: "Thời gian đầu bắt tay vào nghề mới, vợ chồng tôi cũng lo lắm và không biết sẽ bắt đầu từ đâu? Thế nhưng, không lẽ bó tay, mãi chịu cảnh đói, nghèo, nên sau khi học hỏi kinh nghiệm của các hộ làm trang trại trong vùng, vợ chồng tôi quyết định mua vài đôi lợn giống về nuôi. Khi đã có kinh nghiệm, lợn quen chuồng, phát triển tốt, vợ chồng tôi mới đầu tư tăng thêm đầu lợn".
Ngừng một lát, anh Hưởng cho biết thêm: “Cái nghề chăn nuôi này gắn nhiều với sách báo, tài liệu khoa học kỹ thuật. Hồi đầu mình cũng tìm đọc nhiều, lại nhờ cả cán bộ khuyến nông huyện hướng dẫn nên dần dần vợ chồng mình cũng tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm. Làm được một thời gian, thấy có khả năng phát triển, hai vợ chồng bàn nhau, quyết định “làm lớn” luôn”.
Cái chuyện “làm lớn” của vợ chồng anh bắt đầu từ việc anh lặn lội xuống tận Trại giống Thụy Phương (Hà Nội) để tìm mua loại lợn nái chất lượng cao. Rồi lứa lợn con đầu tiên sinh ra khỏe mạnh, ai cũng chúc mừng cho thành công của đôi vợ chồng trẻ dám nghĩ dám làm...
Từ đó, số đầu lợn trong chuồng tăng lên qua từng năm để giờ đây mỗi năm anh chị xuất ra thị trường hàng chục tấn lợn thịt, cộng với thu nhập từ dịch vụ khác, mỗi năm gia đình anh thu về 700 đến 800 triệu đồng. Trừ chi phí, anh chị Hưởng cũng còn lãi được ngót nghét 200 triệu đồng/năm.
Thăm ngôi nhà 3 tầng mới xây khang trang, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt cạnh con đường từ trung tâm huyện vào xã Đại Phác của gia đình anh Hưởng, chúng tôi thực sự thấy ngỡ ngàng và cảm phục người nông dân dám nghĩ dám làm và biết cách làm giàu từ chính sức lao động của mình.
 Theo Báo QĐND

Thị xã Nghĩa Lộ khai thác hiệu quả mô hình cá xen lúa

Với địa hình bằng phẳng, có nguồn nước dồi dào từ Ngòi Thia, suối Nung, suối Nậm Tộc không những đã tạo cho thị xã Nghĩa Lộ điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp mà còn là tiềm năng, lợi thế để địa phương phát triển ngành chăn nuôi thủy sản, nhất là mô hình nuôi cá xen lúa.
Người dân đến Trạm giống Thủy sản Nghĩa Lộ mua cá giống về thả ruộng.

Với lợi thế đồng ruộng trũng, nguồn nước dồi dào quanh năm nên trong nhiều năm qua gia đình ông Lường Văn Sính, tổ Tông Pọng 1, phường Tân An đã tận dụng, áp dụng biện pháp kỹ thuật thả cá xen lúa cho thu nhập đáng kể.
Gia đình ông Sính đã tận dụng 3.000m2 ruộng vừa cấy lúa vừa thả cá. Cá nuôi chủ yếu là cá chép, cá rô, mỗi năm thu hoạch 2 vụ được trên 2 tạ cá, giá bán bình quân từ 50.000 - 55.000 đồng/kg mang về cho gia đình ông trên 10 triệu đồng.
Ông Sính cho biết: “Mặc dù không phải là nghề chính nhưng người dân chúng tôi đã biết tận dụng diện tích trồng lúa để nuôi cá, tăng thêm thu nhập cho gia đình”. Là một trong những người nuôi cá lâu năm ở thôn Bản Vệ, xã Nghĩa An, ông Đồng Văn Nọ có 4.000m2  diện tích trồng lúa đều đã thả cá chép, mỗi vụ thu về trên 1 tạ cá.
Ông Nọ cho biết: “Gia đình nuôi cá xen lúa đã lâu. Nuôi loại cá này không khó, không phải chăm sóc nhiều vì cá ăn cây cỏ non, phân chuồng bón cho lúa, khi lúa trỗ ăn phấn hoa. Nuôi cá trước hết là để cải thiện bữa ăn cho gia đình và nâng cao thu nhập trên 1 đơn vị diện tích đất canh tác”.
Phong trào nuôi cá xen lúa ở Nghĩa Lộ đã có từ lâu, hiện nay, diện tích thả cá xen lúa trên địa bàn là hơn 160ha, tập trung ở 7 xã, phường, trong đó: phường Tân An trên 32ha, Cầu Thia gần 10ha, Trung Tâm trên 7ha, xã Nghĩa Lợi trên 10ha, Nghĩa An gần 15ha… Chương trình nuôi cá xen lúa đã góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người nông dân và nâng cao giá trị sản xuất trên 1ha canh tác của địa phương.
Tuy nhiên, hiện nay, tập quán canh tác của bà con trong vùng là nuôi cá để cải thiện chứ chưa sản xuất tạo vùng hàng hóa tại chỗ. Việc nuôi thả, chăm sóc chưa đúng kỹ thuật cũng ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất như: thả giống mật độ cao, kéo dài thời gian thả, con giống không đồng đều... cộng với các yếu tố môi trường như: nước bị ô nhiễm do dùng thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật nên cá dễ bị ngộ độc chết…
Để khai thác được hết các tiềm năng, lợi thế của địa phương, góp phần đẩy mạnh ngành chăn nuôi thủy sản trở thành ngành kinh tế  có tỷ trọng cao trong sản xuất nông nghiệp, thị xã Nghĩa Lộ cần tăng cường công tác quản lý giống và áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đưa năng suất cá lúa xen canh tăng cao; tập trung xây dựng và nhân rộng các mô hình cá lúa mang lại hiệu quả; cần có các cơ chế, chính sách hỗ trợ cung ứng giống, kỹ thuật cho nhân dân; các cơ quan chuyên môn cần có biện pháp phối hợp, chỉ đạo trong công tác tuyên truyền, vận động, tập trung hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi thủy sản đến từng thôn, bản và hộ dân...
 Theo Báo Yên Bái điện tử

Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh giám sát việc sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ tại Sở Y tế

Chiều ngày 5/3, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái do đồng chí Nguyễn Công Bình - Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh làm trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Sở Y tế về việc thi hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn trái phiếu Chính phủ (TPCP) cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006-2012.

Từ năm 2006 - 2012 bằng nguồn vốn TPCP, ngành Y tế Yên Bái đã được đầu tư, triển khai thực hiện 8 dự án Bệnh viện đa khoa tuyến huyện, 14 phòng khám đa khoa khu vực, 13 dự án mua sắm trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh với tổng nguồn vốn TPCP trên 330 tỷ đồng. Từ nguồn vốn này đã góp phần nâng cấp cơ sở vật chất phục vụ cho việc khám, điều trị và chăm sóc bệnh nhân, nâng cao chất lượng các dịch vụ khám, chữa bệnh, đưa các dịch vụ kỹ thuật y tế hiện đại về gần dân, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân được tiếp cận với các dịch vụ y tế ngày một tốt hơn.
Giai đoạn 2012 - 2015, ngành Y tế được phân bổ từ nguồn vốn  TPCP trên 163 tỷ đồng để thực hiện 8 dự án Bệnh viện tuyến huyện và 3 dự án Bệnh viện tỉnh bao gồm: Cải tạo, nâng cấp tổng thể Bệnh viện đa khoa tỉnh; mua sắm trang thiết bị y tế phục vụ công tác khám chữa bệnh và chỉ đạo chuyên khoa Bệnh viện tâm thần tỉnh Yên Bái; Bệnh viện lao và bệnh phổi; với tổng mức vốn đăng ký trên 160 tỷ đồng. Đến nay công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch thẩm định và phê duyệt các dự án đầu tư, phân bổ và điều chỉnh mức phân bổ giữa các dự án đảm bảo theo đúng quy định hiện hành.
Tuy nhiên việc không cho phép bố trí vốn TPCP giai đoạn 2012 -2015 cho các hạng mục phát sinh đã gây mất cân đối trong bố trí vốn thanh toán không phát huy được hiệu quả đầu tư của dự án. Sở Y tế đề xuất, kiến nghị với Chính phủ cho phép địa phương được chủ động điều hành, thanh toán khối lượng các dự án tránh nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Đề nghị bổ sung vốn từ  TPCP và ngân sách Nhà nước để hoàn thành các dự án bệnh viện tuyến huyện và các phòng khám đa khoa khu vực theo quy mô được phê duyệt.
Phát biểu  kết luận cuộc giám sát, đồng chí Nguyễn Công Bình - Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái ghi nhận, đánh giá cao những kết quả đạt được của Sở Y tế trong việc triển khai thực hiện, phân bổ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn TPCP đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 - 2012. Đồng chí cũng phân tích rõ và nhấn mạnh một số nhiệm vụ cụ thể mà ngành y tế cần tiếp tục thực hiện như cần có căn cứ quy hoạch bổ sung kế hoạch vốn để phân kỳ đầu tư hiệu quả, tránh nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Tăng cường công tác thẩm định, giám sát, chú ý trong lựa chọn nhà thầu tránh thất thoát lãng phí. Cần có các giải pháp cụ thể trong đào tạo đội ngũ cán bộ để sử dụng hiệu quả các trang thiết bị y tế đã được đầu tư. Thực hiện nghiêm Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn vốn TPCP cho đầu tư xây dựng cơ bản.
Theo Báo Yên Bái

Những con đường “Dân liệu”

Năm 2012, xã Mai Sơn, huyện Lục Yên (Yên Bái) đã triển khai thi công hoàn thành được gần 3km đường bê tông, với tổng kinh phí đầu tư trị giá trên 3 tỷ 205 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp trị giá trên 1,4 tỷ đồng.
Năm 2012 xã Mai Sơn đã kiên cố hóa gần 3 km đường bê tông.

Thực hiện Đề án phát triển giao thông nông thôn, năm 2012, cấp ủy, chính quyền xã Mai Sơn, huyện Lục Yên đã linh hoạt trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân hăng hái tham gia hiến đất mở đường, thực hiện kiên cố hóa đường giao thông liên thôn, bản và là một điểm sáng trong phong trào phát triển làm đường giao thông nông thông (GTNT) của huyện Lục Yên.
Dẫn chúng tôi đi trên con đường mới mở ở thôn Đán Đăm, ông Hứa Văn Tình - Phó chủ tịch UBND xã Mai Sơn, Phó ban Chỉ đạo thực hiện kiên cố hóa đường GTNT của xã cho biết: "Là xã được huyện chọn làm điểm để triển khai thực hiện kiên cố hóa đường GTNT liên thôn, bản, ngay sau khi có kế hoạch, cấp ủy Đảng, chính quyền đã thành lập Ban chỉ đạo, phân công nhiệm vụ cho các thành viên trực tiếp xuống từng thôn bản, tổ chức họp dân, tuyên truyền vận động nhân dân, với phương châm "Đường ta làm ta đi",  từ đó nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác phát triển GTNT và được nhân dân đồng tình ủng hộ. Đến nay, toàn xã có hơn 60 hộ dân tình nguyện hiến trên 10 nghìn mét vuông đất để làm đường, tích cực hưởng ứng tham gia đóng góp ngày công, vật liệu, tiền mặt... kiên cố hóa đường GTNT".
Năm 2012, xã Mai Sơn được huyện giao kế hoạch kiên cố hóa gần 3km đường bê tông ở các thôn: Sơn Đông, Sơn Nam và Đán Đăm. Trong đó, riêng thôn Sơn Đông được giao chỉ tiêu làm 1,3km. Để làm được con đường này, ngoài việc huy động đóng góp bằng vật liệu cát sỏi, ngày công tham gia san gạt, làm mặt nền đường, 35 hộ dân của thôn đã tham gia hiến trên 3.000m2 đất. Nhiều gia đình trong thôn đã tình nguyện chặt bỏ những cây trồng lâu năm và nhiều diện tích cây cối, hoa màu… phục vụ cho việc kiên cố hóa đường giao thông liên thôn, bản.
Gia đình bà Hoàng Thị Tiếng ở thôn Sơn Đông là một trong số những hộ đã hiến nhiều diện tích đất nhất với hơn 200m2 đất vườn tạp để làm đường, cho biết: "Ban đầu, gia đình tôi cũng chưa thông vì muốn dựng thêm cái nhà cho đứa con trai nhưng Đảng ủy, chính quyền xã, đoàn thể đến tuyên truyền, vận động cả gia đình tôi cũng đã dần hiểu ra lợi ích lâu dài, làm đường là để cho tương lai con, cháu mình còn đi học hành".
Nhân dân xã Mai Sơn tham gia mở mới trên 16km đường liên thôn, bản.
Ông Hoàng Trung Khiêm cũng là một tấm gương điển hình trong phong trào hiến đất làm đường của xã tâm sự: "Năm nay tôi đã ngoài 70 tuổi rồi, có còn đi đâu xa được nữa nhưng khi có chủ trương vận động nhân dân hiến đất để triển khai làm đường, gia đình tôi cũng đồng tình, ủng hộ ngay. Đến nay, con đường đã hoàn thành, tôi cũng thấy rất vui và phấn khởi lắm, gia đình tôi đóng góp một phần nhỏ để làm nên con đường cũng vì lợi ích chung của bà con trong dân bản, tạo điều kiện cho việc giao lưu, buôn bán dễ dàng hơn và con cháu mình đi học thuận tiện, không bị lầy lội như trước nữa".
Thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm", trong đó, Nhà nước đầu tư hỗ trợ  60%, bằng xi măng, hỗ trợ các phương tiện máy móc, còn lại 40% nhân dân đóng góp bằng tiền, ngày công, vật liệu, năm 2012, xã Mai Sơn đã triển khai thi công hoàn thành được gần 3km đường bê tông, với tổng kinh phí đầu tư trị giá trên 3 tỷ 205 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp trị giá trên 1,4 tỷ đồng.
Theo thống kê, toàn xã có khoảng 25km đường liên thôn, bản, trong đó mới kiên cố hóa được 5,5km đường bê tông. Phát huy kết quả đạt được trong năm 2012 Đảng ủy, chính quyền xã Mai Sơn tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng, các hộ dân sẵn sàng hiến đất khi có các tuyến đường đi qua.
Xã Mai Sơn đã vận động nhân dân mở mới thêm 2km đường đất (tuyến từ thôn Đán Đăm đi thôn Sơn Thượng) và nhân dân đã hiến trên 5.514m2  đất cùng với rất nhiều diện tích cây cối, hoa màu, cây trồng lâu năm khác để giải phóng mặt bằng tạo điều kiện thuận lợi cho thi công.
Từ phong trào này cùng sự đồng tình, ủng hộ nhất trí cao trong nhân dân đã tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ, khí thế thi đua sôi nổi rộng khắp toàn xã trong việc triển khai huy động sức dân tham gia mở đường GTNT. Đến nay, toàn xã đã vận động nhân dân mở mới được hơn 16/24,6km đường đất, mặt nền đường rộng 5,5m để đảm bảo cho việc có thể thi công được ngay khi có chủ trương hỗ trợ đầu tư của Nhà nước.
Nói về những kinh nghiệm trong việc huy động nhân dân tham gia kiên cố hóa đường GTNT trên địa bàn xã, Phó chủ tịch UBND xã Mai Sơn cho hay: "Đó là nhờ phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên và trong quá trình triển khai thực hiện tốt công tác công khai, minh bạch, dân chủ, được nhân dân đồng tình, ủng hộ, khi lòng dân đã thuận thì làm việc gì cũng thuận lợi, thành công". Đó là minh chứng rõ ràng nhất khi "Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong".
(Theo Báo Yên Bái)

Kết quả sản xuất nông lâm nghiệp tháng 2 năm 2013

CTTĐT - Tháng 2 năm 2013 là tháng có Tết Nguyên đán Quý Tỵ tuy nhiên các hoạt động sản xuất nông – lâm nghiệp trên phạm vi toàn tỉnh vẫn đạt mục tiêu đề ra.
Nông dân Lục Yên chăm sóc cây ngô đông.

Tổng diện tích gieo trồng đạt 9.217 ha, tăng 9,83% (tăng 824,6 ha) so với vụ đông năm trước. Diện tích tăng chủ yếu ở diện tích cây ngô (tăng 22,35% = 1.017,2 ha) so với năm trước vượt 11,37% kế hoạch vụ đông. Diện tích các cây trồng khác như khoai lang, rau các loại đạt thấp hơn so với cùng kỳ (khoai lang đạt 990,7 ha, bằng 88,1% so với cùng kỳ; rau các loại đạt 2.639,8 ha bằng 99,63% so với cùng kỳ).
Năng suất ngô đạt 28,02 tạ/ha, sản lượng đạt 15.603,4 tấn, tăng 28,45% so với cùng kỳ năm trước; cây khoai lang năng suất đạt 48,92 tạ/ha, sản lượng đạt 4.846,9 tấn bằng 90,34% so với cùng kỳ; cây rau các loại năng suất đạt 117,09 tạ/ha, sản lượng đạt 30.909,6 tấn tăng 1,69% so cùng kỳ năm trước.
Tính đến ngày 19/02/2013 toàn tỉnh đã cung ứng được 659 tấn giống các loại phục vụ cho nhu cầu sản xuất, đã cấy được 15.389 ha/17.930 ha, đạt 85,8% kế hoạch và vượt 1,5% so cùng kỳ năm trước; trong đó vùng thấp đạt 89% kế hoạch, vùng cao đạt 62,5% kế hoạch. Quản lý và chăm sóc tốt 11.202 ha chè hiện có; sản xuất, chăm sóc 10.000.000 bầu cây giống, đủ cho kế hoạch trồng thay thế 500 ha chè.
Toàn tỉnh cũng đã trồng được 2.150,6 ha rừng trồng sản xuất, đạt 14,3% kế hoạch trồng rừng cả năm và đạt 21,5 % kế hoạch trồng rừng vụ Xuân Hè. Trong đó diện tích trồng tập trung 1.875,8 ha; trồng cây phân tán đạt 274,8 ha.
Thanh Thuỷ

Đầu xuân gặp những nông dân giỏi

Một chuyên gia về kinh tế nhận định, trong thời điểm khó khăn này, nông nghiệp vẫn là nòng cốt, là trụ cột, đặc biệt là chỗ dựa cho toàn nền kinh tế. Và không ai khác, chính những người nông dân năng động sẽ làm nên một nền nông nghiệp phát triển.
Anh Hà Tiến Hùng có thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ nuôi ba ba.

Giữa cái náo nức của một mùa xuân mới, gặp những nông dân giỏi bàn chuyện làm giàu thật thú vị…
Làm giàu từ đất
Thời tiết những ngày đầu năm se sắt lạnh kèm theo mưa phùn nhỏ rất đặc trưng của mùa xuân. Nhưng câu chuyện về con ba ba trong ngày đầu xuân với anh Hà Tiến Hùng ở tổ 28, phường Yên Ninh (thành phố Yên Bái) quả là hấp dẫn. Ngay giữa lòng thành phố đông đúc mà có một cơ ngơi rộng rãi, đẹp đẽ như nhà ông chủ Hùng thật đáng tiền! Bên cạnh ngôi nhà tiền tỷ với kiến trúc hiện đại là trang trại quy mô. Với diện tích hơn 700m2 mặt nước, những ao nuôi được ngăn riêng thành từng khu dành cho ba ba trưởng thành, khu ươm ba ba giống, nhà ấp trứng...
Trong câu chuyện đầu xuân, người đàn ông có quê gốc Cát Thịnh (Văn Chấn) - “thủ phủ” của ba ba say sưa kể về cái nghiệp đã vận vào mình. Thấm thoắt 10 năm theo nghề với nhiều thăng trầm đã cho anh Hùng không ít kinh nghiệm quý báu, từ tập tính của loại vật này đến cách phòng trị bệnh, thời gian sinh trưởng, nguồn nước...
Nhìn lại năm qua, anh đã bán được hơn 1.000 con ba ba giống và hơn 1 tạ ba ba thương phẩm. Ông chủ trẻ phân tích: “Tuy không được giá như các năm trước nhưng hiện ba ba giống mới nở cũng có giá từ 200.000 - 250.000 đồng/con, ba ba thương phẩm giá 600.000 đồng/kg. Không chỉ có những người trong vùng mà còn tận Sơn La, Tuyên Quang… cũng lặn lội tìm đến mua giống, tham quan và học hỏi kinh nghiệm. Ba ba vẫn sẽ là loại vật nuôi mang lại thu nhập “khủng” cho những người đam mê”.
Với giá cả như vậy, mỗi năm, anh Hùng cũng đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng. Sự mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm đem lại thành công cho không ít người nông dân, trong đó có ông chủ ba ba Hùng.
Ông Nguyễn Văn Sách chăm sóc cá.
Mỗi người có một đam mê nhưng đam mê nào cũng xuất phát từ ý chí thoát nghèo và vươn lên làm giàu. Với ông Nguyễn Văn Sách ở thôn Đồng Danh, xã Minh Quân (Trấn Yên) lại khác. Hai vợ chồng ông là những nông dân thuần chất, lam lũ, chịu khó và giỏi lao động. Hỏi chuyện thu nhập năm qua từ mô hình kinh tế tổng hợp, hai vợ chồng ông cười rồi giơ bàn tay lên nhẩm tính.
Ao cá trước nhà mỗi năm cho thu nhập 1 tấn cá thịt chừng 40 triệu đồng; đàn lợn với 3 con lợn nái và mấy chục con lợn thịt mỗi năm xuất bán vài tấn được 100 triệu đồng; 2ha keo đã đến kỳ khai thác, nửa héc-ta chè mỗi năm thu 5 tấn và 5 sào lúa mỗi năm 2 vụ cho thu hoạch 2 tấn thóc, cộng với chăn nuôi mấy trăm con gà, vịt các loại, tính ra mỗi năm trừ chi phí ông cũng thu được 100 triệu đồng.
Năm mới đến, hai vợ chồng ông Sách còn thật nhiều dự định. Vừa nhận khoán 9ha đầm, ông đã đầu tư hơn 40 triệu đồng thả 1 tấn cá giống cộng thêm năm nay, 80 gốc thanh long ruột đỏ đã bước sang tuổi thứ 3 sẽ bắt đầu cho thu hoạch ổn định, mang lại cho gia đình thêm những nguồn thu không nhỏ.
Ngược con đường bê tông êm thuận, tôi đến thăm gia đình ông Phạm Thế Cầu, thôn Bình Sơn, xã Văn Tiến (thành phố Yên Bái). Ông Cầu từ lâu được gọi với cái tên ông Cầu “trồng chanh”. Tên gọi đó gắn với ông từ cái nghề trồng chanh tứ thời Đà Lạt nổi tiếng đã 10 năm nay. Đón khách bằng nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp, ông bảo: “Nông dân mà, ai cũng chân chất và thật thà, làm được sao thì nói vậy thôi!”.
Trong vườn có trên 1.000 gốc chanh, với giá bán 15.000 - 20.000 đồng/kg và 40.000 đồng/cành chanh giống, hai vợ chồng luôn tay hái quả, chiết cành mà vẫn không đủ cung cấp cho thị trường. “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”, 10ha đất trong 10 năm qua là mồ hôi, là công sức để cho chanh, cho thanh long, cho nhãn, cho bưởi đơm hoa kết trái. Những tấm bằng khen trên tường của các cấp, từ thành phố đến tỉnh, Trung ương là ghi nhận cho thành thích lao động của ông.
Mong ước đầu xuân
Sản xuất nông nghiệp luôn đối mặt với khó khăn, từ thiên tai, dịch bệnh cho đến giá cả các loại vật tư nông nghiệp không ngừng tăng cao... Bước sang năm mới, anh Hùng, ông Sách, ông Cầu và rất nhiều người nông dân trên các miền quê khác luôn mong muốn mưa thuận, gió hòa để nông dân bớt đi nhiều nỗi nhọc nhằn.
“Để phát triển sản xuất ổn định, người dân rất cần được Nhà nước quan tâm hơn nữa, có các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, vay vốn với lãi suất ưu đãi, có chính sách phát triển chăn nuôi hàng hóa” - ông Sách cho biết.
Bên cạnh đó, nông nghiệp muốn phát triển bền vững cần thị trường đầu ra ổn định, giá cả hợp lý, cần có các chính sách phát triển thị trường, mở rộng liên kết “4 nhà” để các sản phẩm nông sản làm ra tiêu thụ ổn định, nhanh chóng, tạo động lực cho sản xuất. 
Những người nông dân năng động, sản xuất giỏi sẽ góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sản xuất, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Họ xứng đáng những bông hoa đẹp trong vườn hoa xuân rực rỡ!
 (Theo Báo Yên Bái)

Thoát nghèo nhờ trồng măng mai

Nhiều hộ gia đình ở xã Lâm Thượng (Lục Yên, Yên Bái) không những thoát nghèo mà còn giàu lên nhờ trồng tre măng mai.

Sau 5 năm triển khai mô hình trồng tre măng mai, nhiều hộ gia đình ở xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái không những thoát nghèo mà còn giàu lên từ trên chính những mảnh vườn, đồi nương của mình.
Năm 2009, anh Trần Ngọc Quỳ, dân tộc Tày ở thôn Bản Khéo, xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tham gia mô hình trồng tre măng mai, với trên 1000 gốc tre măng mai. Sau 5 năm, những gốc tre của gia đình anh đã cho thu nhập. Vụ măng năm vừa qua gia đình anh thu được hơn 12 tấn măng tươi, tương đương trên 1,2 tấn măng khô, đem về trên 120 triệu đồng. Ngoài trồng măng, gia đình anh còn chăn nuôi thêm lợn, gà, đào ao thả cá…mỗi năm cũng đem lại nguồn thu cho gia đình vài chục triệu đồng. Từ 2 bàn tay trắng, gia đình anh chị giờ đã làm được một ngôi nhà sàn khang trang,  mua sắm được đồ dùng, phương tiện đi lại như xe máy, ti vi, tủ lạnh….
Anh Trần Ngọc Quỳ cho biết: “Lúc chưa trồng cây măng mai, kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Từ khi tham gia trồng và có nguồn thu từ cây tre măng mai cuộc sống gia đình đã thay đổi nhiều và gia đình tôi sẽ tiếp mở rộng trồng loại cây này vì có giá trị kinh tế cao”.
Cũng giống như anh Quỳ, khi được chính quyền địa phương vận động trồng cây tre măng mai, một loại cây bản địa có giá trị kinh tế cao, chị Sầm Thị Thường, dân tộc Tày ở Bản Khéo, xã Lâm Thượng nhận thấy gia đình sẵn có đất đồi, vốn đầu tư ban đầu không cao, dễ chăm sóc, hầu như không bệnh tật nên đã tham gia trồng 600 gốc măng. Sau 5 năm trồng, từ cung cấp giống, thu gom măng của bà con trong bản để bán ra thị trường bên ngoài, mỗi năm gia đình chị có thu nhập khoảng 150 đến 200 triệu đồng. Và cũng từ cây măng đã giúp chị trở thành một nông dân nắm vững kỹ thuật chăm sóc, khai thác, chế biến cây măng như người được đào tạo bài bản.
Chị Sầm Thị Thường cho biết: “Trồng cây măng tốt nhât là vào mùa xuân vì đây là thời điểm lượng mưa đều. Lúc trồng, đối với đất bằng thì nên bón lót thêm phân NPK hoặc phân chuồng, mỗi gốc cách gốc khoảng 5 mét; nếu đất tốt thì khoảng cách này có thể xa hơn. Khi thu hoạch, mỗi gốc phải để 2 đến 3 củ măng phát triển thành cây cho sang năm mọc măng tiếp. Và sau lấy măng, tầm tháng 9, tháng 10 phải tỉa bớt những cây nhỏ ở gốc để dinh dưỡng tập trung cho cây to sang năm mọc măng”.
Không chỉ gia đình anh Quỳ, chị Thường mà nhiều hộ gia đình trong xã đã có kinh tế khá giả nhờ trồng cây măng mai. Hiện toàn xã có khoảng 80 ha, tập trung chủ yếu ở Bản Khéo, Nặm Chắn và Nặm Chọ, với tổng sản lượng hàng năm khoảng gần 400 tấn măng tươi. Đối với thị trường tiêu thụ hiện nay, các tiểu thương trong tỉnh và một số tỉnh lân cận đặt mua tại nhà ngay từ đầu vụ với giá khoảng 100 đến 120 nghìn/1kg măng khô.
Để đảm bảo giá cả, thị trường ổn định trước mắt chính quyền địa phương vận động bà con nhân dân tuân thủ đúng các quy trình làm khô, không sử dụng thuốc bảo quản, chất tẩm màu làm mất hình ảnh, chất lượng và thị trường. Về lâu dài chính quyền địa phương đang tính đến xây dựng lò sấy, để giải quyết được tình trạng hiện nay hầu hết bà con dựa vào thời tiết để làm khô nên thường gặp nhiều bất lợi.
Nói về đống góp của cây măng mai đối với kinh tế của địa phương. Ông Trần Thanh Trúc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái cho biết: “Cây măng mai hiện nay là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế rất cao, bình quân mỗi búi cho thu hoạch từ 2 tạ đến 3 tạ măng tươi. Sau đó, phơi khôi bán ra thị trường với giá trên 100.000 đồng/kg, từ đó nâng cao mức thu nhập gia đình của địa phương”.
Mô hình trông tre măng mai ở xã Lâm Thượng, huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái đã và đang góp phần nâng cao mức sống của người dân địa phương. Nếu như được chính quyền các cấp quan tâm đảm bảo thị trường ổn định lâu dài thì đây sẽ là một loại cây trồng không những xoá đói giảm nghèo riêng ở Lâm Thượng, mà còn có thể mở rộng ra cho nhiều địa phường của vùng Tây Bắc có địa hình, thổ nhưỡng tương tự./.
Theo VOV

Rộn ràng Khu công nghiệp phía Nam

Không khí tết vẫn còn vương trên mỗi phố phường, bản làng, trên các ngả đường, tuyến phố người xe tấp nập đi chùa cầu may thì ở các công ty, nhà máy trong Khu công nghiệp (KCN) phía Nam đã rộn rã tiếng máy. Trên đường vào KCN, xe lớn, xe nhỏ nối đuôi nhau nhập, xuất hàng hoá, từng tốp công nhân hối hả vào ca…
Công nhân Công ty cổ phần Dinh dưỡng Việt Tín vận chuyển hàng hóa đi tiêu thụ.

Tại Nhà máy Chế biến thức ăn gia súc thuộc Công ty cổ phần dinh dưỡng Việt Tín, hàng trăm công nhân đang hối hả vào ca sản xuất, phía ngoài sân một tốp hơn chục công nhân đang vận chuyển hàng trăm tấn thức ăn đưa về các đại lý tiêu thụ.
Anh Bùi Minh Hải - Quản lý sản xuất Công ty cho biết: “Kế hoạch năm 2013 Công ty phấn đấu sản xuất trên 25 ngàn tấn sản phẩm thức ăn gia súc các loại. Vì vậy, ngay từ mùng 6 tết, Công ty đã tổ chức gặp mặt 90 anh em cán bộ công nhân viên và đi vào sản xuất ngay. Qua 7 ngày đi vào hoạt động đã sản xuất được hơn 300 tấn sản phẩm. Từ đầu năm đến nay, Công ty đã sản xuất và tiêu thụ được 1.500 tấn sản phẩm. Với tốc độ sản xuất như hiện nay cùng với có sự chuẩn bị sẵn nguồn nguyên liệu chắc chắn Công ty sẽ hoàn thành kế hoạch cả năm”.
Anh Hoàng Văn Dũng - công nhân Công ty đang đóng bao sản phẩm phấn khởi cho biết: “Sản xuất ở đây tuy vất vả nhưng lại có việc làm và thu nhập ổn định, lương bình quân đạt 5 triệu đồng/người/tháng, có nhiều người đạt hơn 7 triệu đồng/tháng. Bên cạnh đó, mọi chế độ của người lao động như bảo hộ lao động, tiền ăn ca, chế độ bảo hiểm xã hội, y tế được đảm bảo. Cuối tháng, cuối năm phân xưởng nào làm tốt nhiệm vụ còn được thưởng theo giá trị công việc nên anh em công ty rất phấn khởi”.
Tiếp đó, chúng tôi đến Công ty An Phát chuyên sản xuất hạt phụ gia CaCO3 cũng một không khí làm việc rất nhộn nhịp. Tuy mới đi vào sản xuất được hơn 2 năm nhưng nhờ có chiến lược kinh doanh, tiềm lực tài chính ổn định và đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề nên việc sản xuất kinh doanh khá thuận buồm xuôi gió. Năm 2012 sản xuất và tiêu thụ được trên 9.600 tấn sản phẩm doanh thu đạt hàng chục tỷ đồng, đời sống của gần 100 cán bộ, công nhân tương đối ổn định với mức thu nhập bình quân 4,5 triệu đồng/người/tháng.
Dẫn chúng tôi đi thăm nhà máy, anh Dương Huy Bình - Phụ trách sản xuất, kinh doanh cho biết: “Ra quân ngày mùng 4 tết, bình quân mỗi ngày sản xuất được 33 tấn sản phẩm. Năm 2013, Công ty dự kiến sản xuất trên 20 ngàn tấn sản phẩm. Để hoàn thành kế hoạch, Công ty đã và đang đầu tư lắp đặt thêm 2 dây chuyền và sẽ đi vào sản xuất trong cuối tháng 3 này. Ngoài việc sản xuất kinh doanh hiệu quả, Công ty cũng luôn chú trọng, quan tâm đào tạo và chăm lo các chế độ chính sách cho người lao động được đảm bảo để mỗi công nhân luôn nghĩ mình là một thành viên trong ngôi nhà lớn An Phát”.
Cũng như Công ty cổ phần dinh dưỡng Việt Tín, Công ty An Phát và các công ty, nhà máy, doanh nghiệp nằm trong KCN phía Nam đã đi vào sản xuất ổn định ngay từ những ngày đầu năm. Ông Trần Ngọc Dũng -Trưởng phòng quản lý sản xuất KCN cho biết: “Với diện tích 532 ha, cùng với kết cấu hạ tầng như: điện, đường, nước, bưu chính viễn thông... khá hoàn chỉnh, nhờ vậy đến nay đã hút được 17 dự án với tổng vốn đầu tư gần 2 ngàn tỷ đồng và đã có 12 dự án đã đi vào sản xuất, thu hút 750 lao động.
Các dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh khá hiệu quả như: Nhà máy nghiền Felspat thuộc Công ty cổ phần khoáng sản VPG, công suất 100 ngàn tấn sản phẩm/năm, thu hút 50 lao động; Nhà máy nghiền bột đá CaCO3 thuộc Công ty Cổ phần Mông Sơn, công suất 80 ngàn tấn sản phẩm/năm, thu hút 120 lao động; Nhà máy chế biến đá vôi trắng thuộc Công ty Phát triển số 1-TNHH 1 thành viên Hải Dương, công suất 250 ngàn tấn sản phẩm/năm, thu hút 160 lao động...
Bước sang năm 2013 này, nền kinh tế vẫn tiếp tục khó khăn, thị trường hàng hoá biến động, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao nhưng các nhà máy, công ty trong các KCN đã nỗ lực sản xuất, kinh doanh do đó giá trị sản xuất tháng 1 đạt 100 tỷ đồng, chiếm 20% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh”. 
Năm 2013, được dự báo vẫn là một năm đầy khó khăn, thách thức với các nhà đầu tư, các doanh nghiệp sản xuất nhưng với sự quyết tâm và những giải pháp, chiến lược trong sản xuất, kinh doanh cùng khí thế ra quân ngay từ những ngày đầu năm chắc chắn các doanh nghiệp Yên Bái sẽ vượt qua để đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả.
Theo Báo Yên Bái

Đồng chí Phạm Duy Cường – Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái làm việc với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

CTTĐT – Chiều ngày 5/3/2013, đồng chí Phạm Duy Cường – Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái đã có buổi làm việc với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về thực hiện kế hoạch năm 2013, một số đề án và công tác triển khai đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2013.
Đồng chí Phạm Duy Cường phát biểu chỉ đạo tại hội nghị.

Cùng dự buổi làm việc có các đồng chí lãnh đạo các sở, ngành, lãnh đạo UBND các huyện, thị, thành phố.
Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính đến ngày 4/3/2013 toàn tỉnh đã cấy được 17.703 ha lúa vụ Xuân đạt 98,7% kế hoạch, trong đó vùng thấp đạt 99,7% kế hoạch, vùng cao đạt 91% kế hoạch. Đã trồng được 2.623,3ha, đạt 21% kế hoạch. Tính đến nay, toàn tỉnh đã thu hái ước đạt 3.000 tấn chè, chế biến được 650 tấn chè khô các loại.
Các ngành chức năng của tỉnh đã thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 04 doanh nghiệp thuê đất, thuê rừng với diện tích là 12.200 ha, hiện nay đang rà soát, kiểm tra 181.604,3 ha rừng sản xuất hiện có tại các huyện. Đã có 4/9 huyện xây dựng xong Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp huyện. Các đề án này đã được Hội đồng nhân dân huyện thông qua và đang trình UBND tỉnh phê duyệt.
Tại buổi làm việc, lãnh đạo UBND các huyện, thị xã, thành phố đã phân tích những thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp, công tác phòng chống bệnh dại, sản xuất vụ đông xuân và chăn nuôi trâu bò…
Phát biểu tại buổi làm việc, đồng chí Phạm Duy Cường - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã ghi nhận sự đóng góp của ngành nông nghiệp vào thành công chung của tỉnh trong năm 2012. Tuy nhiên đồng chí cũng nêu rõ, trong thời gian vừa qua, công tác quy hoạch của ngành chưa sát với thực tiễn, đặc biệt là quy hoạch sinh vật cảnh, cây quế Văn Yên và cây ngô hàng hóa; Ngành chưa tham mưu với tỉnh để giải quyết kịp thời, dứt điểm một số vấn đề đang vướng mắc thuộc phạm vi quản lý.
Về Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp, đồng chí Phạm Duy Cường nhấn mạnh đây là đề án có ý nghĩa quan trọng đối với tỉnh Yên Bái, vì vậy các ngành, các cấp phải tập trung các nguồn lực để triển khai đề án đạt kết quả cao nhất, trong đó chú trọng vào công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về đề án này.
Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tiến hành điều chỉnh, bổ sung một số quy hoạch chưa hợp lý như quy hoạch vùng chè, quế, sơn tra, cao su... Nhanh chóng hoàn chỉnh Đề án phát triển chè tỉnh Yên Bái, Đề án phát triển chăn nuôi đàn gia súc chính theo hướng sản xuất hàng hóa giai đoạn 2013-2015. Tập trung  xây dựng và phát triển các làng nghề nhằm nâng cao đời sống của nhân dân gắn với xây dựng nông thôn mới. Trong  năm 2013 sẽ xây dựng 01 xã hoàn thành tiêu chí xây dựng nông thôn mới để rút kinh nghiệm trên toàn tỉnh. Các  ngành Tài chính, Kế hoạch - Đầu tư bố trí vốn hợp lý cho các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường cho 11 xã thí điểm xây dựng nông thôn mới.
Về nhiệm vụ trong thời gian tới, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần quản lý tốt chất lượng giống, đảm bảo sản xuất đúng khung thời vụ, tăng cường kiểm soát dịch bệnh, làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra tại các địa phương. Quan tâm chỉ đạo sản xuất vụ Xuân, công tác phòng dại, phòng dịch bệnh trên phạm vi toàn tỉnh…
Thanh Thủy

Thành phố Yên Bái đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng đường tránh ngập

Đến thời điểm này, khu tái định cư (TĐC) số 1 tại phường Đồng Tâ, thành phố Yên Bái đã thi công xong mặt bằng nhưng cơ sở hạ tầng như đường giao thông nội bộ, cống thoát nước, hệ thống điện chưa hoàn thành.

Đối với tuyến chính hiện còn 13 hộ chưa nhận tiền bồi thường hỗ trợ, hiện chủ đầu tư đang tiếp tục thi công khu TĐC số 4 và số 5 tại xã Văn Phú và xã Phúc Lộc, 37 hộ gia đình nằm trên tuyến tại khu vực xã Phúc Lộc đã nhận tiền bồi thường hỗ trợ tái định cư.
Đoạn tuyến chạy qua xã Văn Phú đã có quyết định phê duyệt mức bồi thường hỗ trợ cho 122 hộ gia đình với tổng kinh phí gần 14,5 tỷ đồng, đến nay đã thực hiện chi trả xong toàn bộ kinh phí bồi thường cho các hộ trong diện thu hồi đất. Riêng đối với đoạn tuyến qua xã Tân Thịnh, tại khu TĐC 2A đã có 52 hộ gia đình và 59 ngôi mộ được phê duyệt kinh phí bồi thường.
Xã Tân Thịnh có 288 hộ nằm trong diện thu hồi đất để thi công tuyến chính và các nút giao, hiện đã có quyết định phê duyệt phương án bồi thường cho 152 hộ, song công tác giải phóng mặt bằng hỗ trợ TĐC ở xã Tân Thịnh đang gặp khó khăn khi giấy tờ pháp lý về đất đai trong trao tặng, mua bán chuyển nhượng, đổi đất, chỉnh lý loại đất hiện trạng đang sử dụng của người dân chưa hoàn thiện.
Thành phố cũng đề nghị chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công các khu TĐC trên tuyến để người dân sau thu hồi đất sớm ổn định cuộc sống. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chế độ, chính sách đến các hộ dân trong diện phải thu hồi đất, vận động bà con chấp hành nghiêm những quy định trong giải phóng mặt bằng hỗ trợ TĐC.
Theo Báo Yên Bái

Sở NN&PTNT: Đề xuất, trình HĐND tỉnh 2 Đề án phát triển nông nghiệp

CTTĐT - Hiện nay Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang hoàn thiện 02 Đề án trình Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái thông qua vào kỳ họp HĐND lần thứ 7 khoá XVII vào tháng 7 năm 2013.
Yên Bái phấn đấu đạt 95.000 tấn chè búp tươi vào năm 2015.

Đề án phát triển chè tỉnh Yên Bái giai đoạn 2013 - 2015 được thông qua sẽ đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh chè bền vững, coi trọng chất lượng, lấy nâng cao chất lượng sản xuất, chế biến chè là khâu đột phá để nâng cao giá trị và hiệu quả. Quy hoạch vùng chè nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất chè búp với cơ sở chế biến, tích cực vận động nhân dân và có chính sách cụ thể hỗ trợ trồng thay thế, trồng mới diện tích chè có năng suất, chất lượng thấp. Xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm chè Yên Bái.
Ổn định diện tích chè đến năm 2015 khoảng 11.500 ha với năng suất bình quân đạt 88,6 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt 95.000 tấn. Từ 2013-2015 trồng thay thế, trồng mới 1.800 ha bằng giống chè có năng suất, chất lượng cao. Rà soát, sắp xếp lại 104 cơ sở sản xuất chế biến kinh doanh chè, sản phẩm chè chế biến các loại đạt khoảng 20.000 tấn, xuất khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác khoảng 30% lượng chè chế biến; nâng giá chè thành phẩm trung bình lên 1,7 USD/01 kg vào năm 2015. Tăng thu nhập cho người trồng chè gấp 1,84 lần so với năm 2010. Hỗ trợ đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, chuyển giao công nghệ cho các cơ sở sản xuất, chế biến chè.
Đề án phát triển chăn nuôi đàn gia súc chính theo hướng sản xuất hàng hoá tỉnh Yên Bái giai đoạn 2013-2015 nhằm mục tiêu phấn đấu đạt mức tăng trưởng bình quân của đàn gia súc chính 3%/năm trở lên, đạt 630.202 con vào năm 2015; Sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt 32.000 tấn (tăng 4% năm), trong đó sản lượng thịt đàn gia súc chính đạt 28.500 tấn; giá trị sản xuất chăn nuôi đạt 1.200 tỷ đồng. Từng bước nâng dần tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong cơ cấu ngành nông nghiệp đạt 26% năm 2015.
Thanh Thuỷ
Thành phố Yên Bái triển khai 7 dự án chỉnh trang đô thị
CTTĐT - Ngày 7/3/2013, thành phố Yên Bái tổ chức hội nghị triển khai 7 dự án chỉnh trang đô thị năm 2013.
Trung tâm thành phố Yên Bái

Trong năm nay, thành phố Yên Bái triển khai 7 dự án chỉnh trang đô thị bao gồm: dự án cải tạo hành lang hè phố đường Yên Ninh, đoạn từ bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái đến ngã tư Nam Cường; Dự án cải tạo hành lang hè phố đường Lý Thường Kiệt; Dự án cải tạo hành lang hè phố tuyến quốc lộ 37, đoạn từ cầu Yên Bái đến UBND xã Hợp Minh; Dự án cải tạo cây xanh hè phố trên toàn địa bàn; Dự án nâng cấp đường nội bộ công viên Yên Hoà và dự án xây dựng cống thoát nước đường Hoàng Hoa Thám, khu vực bến xe khách Yên Bái.
Các dự án này được triển khai từ ngày 15/3/2013, phấn đấu sớm hoàn thành đưa vào sử dụng góp phần nâng cao bộ mặt đô thị Yên Bái.
Tại hội nghị, lãnh đạo Đảng uỷ, UBND các xã, phường, đại diện tổ trưởng, trưởng thôn nhân dân trong phạm vi tác động của dự án đã phát biểu tham gia nhiều ý kiến đóng góp. Đa số các ý kiến đều bày tỏ niềm tin, phấn khởi khi thành phố triển khai các dự án chỉnh trang đô thị này. Ngay sau hội nghị triển khai cấp thành phố, các thôn, tổ nhân dân trong vùng dự án triển khai các nội dung có liên quan để toàn thể nhân dân được biết, ủng hộ, phối hợp thực hiện./.
Thanh Nghị - Đài Truyền thanh Tp Yên Bái

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011-2015

CTTĐT- Thời gian qua, công tác triển khai Đề án giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp giai đoạn 2011 - 2015 còn gặp những khó khăn. Vì vậy tỉnh Yên Bái đang tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, đồng thời tích cực triển khai và thực hiện có hiệu quả các nội dung đã đề ra trong thời gian tới.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về Đề án trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng.

Hiện nay Sở Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các ngành của tỉnh thẩm định và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 4 doanh nghiệp thuê đất, thuê rừng trong Đề án theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh. Trong đó, Công ty Cổ phần Giấy Miền Bắc được khảo sát, lập dự án thuê đất, thuê rừng với diện tích khoảng 4.000 ha. Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu lâm nghiệp Yên Bái được thuê 4.000 ha để tổ chức trồng rừng nguyên liệu phục vụ Nhà máy chế biến gỗ ván thanh, ván MDF tại Yên Bái. Công ty Cổ phần Vĩnh Sơn được thuê 4.000 ha đất rừng để tổ chức trồng rừng nguyên liệu phục vụ Nhà máy chế biến tại Yên Bái. Công ty xây dựng Hà Nội thuê đất trồng rừng kinh tế tại huyện Văn Chấn với diện tích là 200 ha.
Đến nay 9/9 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện đề án giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện. Những đề án này đã được HĐND huyện thông qua và đang trình UBND tỉnh phê duyệt. Cụ thể, đến nay đã có 04 huyện là Trấn Yên, Mù Cang Chải, Văn Yên, Văn Chấn đã hoàn thành đề án giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện, Hội đồng nhân dân huyện thông qua và đang trình UBND tỉnh phê duyệt.
Về việc xây dựng phương án giao rừng cấp xã, đến thời điểm này trên địa bàn tỉnh đã có 07 xã đang tiến hàng xây dựng phương án cụ thể theo các nội dung của đề án. Cụ thể, xã Y Can (huyện Trấn Yên) và xã Vũ Linh (huyện Yên Bình) đã xây dựng xong phương án giao rừng, cho thuê rừng và được thông qua tại HĐND cùng cấp; xã Minh Xuân (huyện Lục Yên), xã Quang Minh (huyện Văn Yên), xã Nghĩa Sơn (huyện Văn Chấn), xã Phình Hồ (huyện Trạm Tấu), xã Púng Luông (huyện Mù Cang Chải) đã thực hiện công tác tuyên truyền đến các hộ gia đình, cộng đồng dân cư về công tác giao rừng, cho thuê rừng và đang tiến hành xây dựng phương án chi tiết trình HĐND xã thông qua trong Quý I năm 2013.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Đề án, việc xây dựng các đề án cấp huyện và phương án cấp xã của các địa phương còn chậm. Kinh phí thực hiện đề án và kinh phí cho thực hiện rà soát diện tích 181.604,3 ha đất rừng chưa được cấp phát cũng ảnh hưởng đến tiến độ triển khai Đề án. Một số chính quyền địa phương chưa thực sự vào cuộc. Diện tích dự kiến cho thuê, sau khi đoàn công tác cùng với các doanh nghiệp khảo sát tại thực địa một số nơi đã bị người dân tranh thủ lợi dụng lấn chiếm. Diện tích đất trống dự kiến cho thuê để trồng rừng, các địa phương báo cáo sau khi rà soát giảm so với dự kiến vì diện tích này người dân địa phương tự nhận là đã trồng rừng vào đó, vì thế rất khó cho việc thoả hiệp xử lý tài sản trên đất để tiến hành  cho thuê theo quy định. Diện tích rừng có vị trí thuận lợi gần nhà, gần đường giao thông, độ dốc thấp và rừng có trữ lượng lớn thường được nhiều người xin nhận, vì thế khó khăn cho việc phân chia và lập phương án.
Trong thời gian tới tỉnh Yên Bái sẽ tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về tiến độ triển khai Đề án. Đài Truyền hình tỉnh, Báo Yên Bái xây dựng chuyên trang, chuyên mục về triển khai Đề án, Cổng TTĐT tăng cường cập nhật thông tin lên chuyên trang Giao đất, giao rừng, tiếp nhận, chuyển đến các cơ quan liên quan để trả lời các câu hỏi của nhân dân về triển khai Đề án. Theo chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh, thời gian tới sẽ đưa ra xét xử nghiêm minh các hành vi có tính chất lấn chiếm đất, rừng và cản trở công tác triển khai Đề án giao rừng cho thuê rừng.
Bên cạnh đó, sẽ tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc các địa phương hoàn chỉnh đề án giao rừng, cho thuê rừng cấp huyện, thẩm định và trình UBND tỉnh phê duyệt trong Quý I năm 2013. Kiểm tra tiến độ xây dựng Đề án cấp huyện, phương án các xã điểm và kết quả thực hiện công tác rà soát diện tích đất rừng chưa giao, cho thuê trong đề án. Chỉ đạo, giám sát xã Vũ Linh, xã Y Can hoàn thiện phương án giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong Quý I năm 2013 và tiến hành thực hiện trong năm 2013 theo kế hoạch.
Tổ chức rút kinh nghiệm việc giao rừng, cho thuê rừng gắn liền với giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp tại 02 xã Vũ Linh và xã Y Can để triển khai trên diện rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Tiếp tục tiến hành kiểm tra, rà soát về thực trạng quản lý diện tích rừng chưa giao, cho thuê trong đề án hiện nay đang thuộc nhà nước quản lý trên địa bàn tỉnh theo kết luận của đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh.
Thanh Thuỷ
Vị trí Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc. Phía đông bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai.

Hành chính

Yên Bái bao gồm 01 thành phố, 01 thị xã và 07 huyện:
  1. Thành phố Yên Bái, được nâng cấp từ thị xã ngày 11 tháng 01 năm 2002;
  2. Thị xã Nghĩa Lộ, thành lập ngày 15 tháng 05 năm 1995;
  3. Huyện Lục Yên
  4. Huyện Mù Cang Chải
  5. Huyện Trấn Yên
  6. Huyện Trạm Tấu
  7. Huyện Văn Chấn
  8. Huyện Văn Yên
  9. Huyện Yên Bình
với tổng số 180 xã, phường, thị trấn.

Địa hình

Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng.
Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600 mét so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi.

Sông ngòi

Đèo Khau Phạ trên Quốc lộ 32
Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, còn có khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ và hồ, đầm. Đầu thập niên 1960, Nga giúp thiết kế hồ Thác Bà là hồ nước nhân tạo có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, với khoảng 1.300 đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 3–3,9 tỷ m³ nước với mục đích ban đầu là chạy nhà máy thuỷ điện Thác Bà: Công trình thuỷ điện lớn đầu tiên ở Việt Nam.

Khí hậu

Yên Bái có khí hậu đặc trưng của khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền bắc Việt Nam, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô.

Rừng

Yên Bái có rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. ở đây có gỗ quý pơ-mu sẽ tốt cho sức khỏe và đuổi muỗi nếu làm giường.

Khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản trữ lượng khá lớn như đá đỏ, sắt, thạch anh, đá fenspat, đá trắng Đông Nam Á.

Nông nghiệp

Đất nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên, trong đó có cánh đồng Mường Lò rộng 2.300 ha nổi tiếng vùng Tây Bắc với nhiều sản vật có giá trị như: chè, quế, gạo nếp Tú Lệ, cam Lục Yên, nhãn Văn Chấn.

Dân tộc

Hiện nay, toàn tỉnh có 740.905 người (điều tra dân số ngày 01/04/2009, gồm 30 dân tộc chung sống. Các dân tộc ở Yên Bái sống xen kẽ, quần tụ ở khắp các địa phương trên địa bàn của tỉnh với những bản sắc văn hoá phong sắc. chan

Lịch sử

Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hoá nhân bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện, như đền, tháp, khu di tích lịch sử.
Được thành lập năm 1900, tỉnh Yên Bái được biết đến qua cuộc Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng vào thượng tuần tháng 2 năm 1930. Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp bắt và đem hành quyết bằng máy chém ở Yên Bái cùng 12 đồng đội vào ngày 17 tháng 6 năm 1930.

Giao thông

Đường vào huyện Trạm Tấu
Nhà thờ Nghĩa Lộ
Giao thông ở Yên Bái có hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thuỷ. Quốc lộ 2, 13A, 32, 37 và 70 chạy qua tỉnh. Thông thương từ Yên Bái đến các tỉnh lân cận của miền Tây Bắc và Việt Bắc ngày càng phát triển nhất là khi hệ thống đường bộ đang tiếp tục được hoàn thiện, tuyến đường sắt Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai nối liền tới Côn Minh, Trung Quốc được nâng cấp.

Đặc sản, lâm thổ sản

  • Gạo nếp Tan (Tú Lệ, Văn Chấn)
  • Xôi ngũ sắc (Nghĩa Lộ và Văn Chấn)
  • Xôi tam sắc (Nghĩa Lộ và Văn Chấn)
  • Táo mèo (Mù Căng Chải và Trạm Tấu)
  • Chè tuyết (Suối Giàng, Văn Chấn)
  • Bưởi Đại Minh
  • Cam sành (Lục Yên)
  • Nhãn (Văn Chấn)
  • Khoai sọ (Lục Yên)
  • Quế (Văn Yên)
  • Lạp cá (Mường Lò)
  • Thịt chó (thành phố Yên Bái)
  • Thịt trâu gác bếp (Yên Bái)
  • Cá (hồ thủy điện Thác Bà)
  • Cá tiểu bạc (hồ thủy điện Thác Bà)
  • Dế mèn (Mường Lò)
  • Pơ mu
  • Cải mèo

Du lịch

  • Ruộng bậc thang Mù Căng Chải
  • Thủy điện Thác Bà
  • Chợ đá quý Lục Yên
  • Đền Tuần Quán
  • Cánh đồng Mường Lò
  • Thác Mơ
  • Điểm du lịch Hồ Thác Bà

Giáo dục

Trong những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo của tỉnh có nhữngì chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống giáo dục và đào tạo được củng cố, phát triển. Quy mô giáo dục tăng nhanh, các cấp học, ngành học từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, từ giáo dục chính quy đến giáo dục thường xuyên dần hoàn thiện. Công tác đào tạo đã có một số chuyển biến tích cực, đáp ứng một phần nguồn nhân lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Hiện nay toàn ngành đang tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2009 - 2015. Một số trường học có uy tín tại Yên Bái
  • Trường CĐSP Yên Bái
  • Trường THPT chuyên Nguyễn Tất Thành
  •   TÀI NGUYÊN ĐẤT

     Theo tiêu chuẩn phân loại của FAO-UNESCO, đất đai Yên Bái được chia thành 7 nhóm với 16 đơn vị đất và 35 đơn vị đất phụ
     
    CÁC NHÓM ĐẤT:
    Nhóm đất phù sa: Ký hiệu (p) (Fhivisols ) (FL)
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 9.171,0 ha, chiếm 1.33% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố được hầu hết các huyện trong tỉnh, nhưng phần lớn tập trung ở lưu vực các con sông, suối lớn như sông Hồng, sông Chảy, Ngòi Thia... khu vực có diện tích tập trung nhiều nhất là bồn địa Văn Chấn và trở thành cánh đồng phù sa trồng lúa lớn nhất tỉnh; các cánh đồng phù sa của huyện Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên, Yên Bình.
    Nhóm đất này được hình thành do quá trình bồi lắng phù sa của các con sông suối trong tỉnh, tùy theo thành phần mẫu chất mà các khu vực có những đặc tính lý, hóa học khác nhau.
    Nhóm đất này có đặc tính xốp lớn, hàm lượng chất hữu cơ giảm theo chiều sâu của đất, ngoài tầng A bị xáo trộn có màu xám hoặc tơi mềm hoặc tối màu hoặc có tầng H tích lũy chất hữu cơ, ngoài ra không có tầng chuẩn đoán nào khác.
    Khả năng khai thác, sử dụng của loại đất này thích hợp trồng lúa, cây màu, các loại và hiện nay đã và đang được đưa vào khai thác, sử dụng cơ bản hết.
    Nhóm đất glay (GL) (Gleysols) (GL):
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 4.227 ha chiếm 0,61% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Phân bố rải rác hầu hết các huyện, nhưng tập trung nhiều nhất ở huyện Lục Yên, Yên Bình, Trấn Yên, trên các địa hình thấp trũng hoặc thung lũng giữa các dãy núi, khả năng thoát nước kém.
    Đất giây hình thành từ các vật liệu không gắn kết từ các vật liệu có thành phần cơ giới thô và trầm tích phù sa có đặc tính Fluvie, thường hình thành ở địa hình đọng nước và những nơi có mực nước ngầm nông; đất có màu nâu đen, xám đen, lầy thụt, bão hoà nước có tính trương co lớn, khi khô trở thành cứng rắn. Trong đất có quá trình khử chiếm ưu thế.
    Khả năng khai thác thích hợp và được sử dụng chủ yếu cho trồng lúa nước, tận dụng làm hồ, đầm, ao nuôi thuỷ sản.
    Nhóm đất đen (R) Luvíols (LV):
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 902 ha chiếm 0,13% diện tích tự nhiên của tỉnh. Phân bố tập trung tự nhiên ở Lục Yên, trên các địa hình thung lũng và chân núi đá vôi; diện tích thích hợp và xen kẽ giữa các loại đất khác.
    Nhóm đất này được hình thành trên địa hình thung lũng hoặc chân đồi núi đá vôi, nên chủ yếu là đất đen trên đá vôi, có thành phần cơ giới nặng, có tầng BAngic tính sét với khả năng trao đổi cation lớn, thường là hơn 24me/100g đất, độ no bazơ trên 50% trong suốt tầng B cho đến 125 cm.
    Do địa hình thấp, tích luỹ nhiều chất hữu cơ nên đất đai có màu đen hoặc nâu thẫm điển hình. Phần lớn nhóm đất này có tầng mỏng do có nhiều kết vón ở thung lũng và đá mẹ ở đất đồi. Đất này có hàm lượng mùn cao. Thích hợp với khả năng trồng lúa ở địa hình trũng và rau màu các loại; cây ăn quả ở địa hình cao.
    Nhóm đất xám (X) A críols (AC):
    Nhóm này có diện tích khoảng 566.923 ha chiếm 82.37%, diện tích tự nhiên toàn tỉnh, là nhóm có diện tích lớn nhất tỉnh, phân bổ phần lớn diện tích núi của tỉnh, ở độ cao dưới 1.800m ở tât cả các huyện trong tỉnh, song tập trung nhiều nhất ở các huyện Văn Yên, Văn Chấn, Mù Cang Chải.
    Đây là nhóm đất được hình thành tại chỗ ở địa hình đồi núi, chủ yếu có độ dốc lớn. Đất có tầng B tính sét với khả năng trao đổi cation dưới 24me/100g đất, độ nobazơ nhỏ hơn 50%. Tối thiểu ở một phần của tầng B ở lớp đất từ 0-125 cm. Không có tầng E nằm đột ngột ngay ở trên một phần có tính thấm chậm. Theo phân loại của nhóm đất này gồm các loại đất bạc màu, đỏ vàng trên đá macma ãit, phiến sét, phù sa cổ, đá cát… đất có phản ứng chua, độ no bazơ thấp, hoạt tính thấp.
    Nhóm đất này có khả năng thích hợp trồng cây nông nghiệp, công nghiệp ở vùng thấp, trồng rừng và bảo vệ rừng ở địa hình đồi núi cao.
    Nhóm đất đỏ (F) Ferralsols ( FR):
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 12.103 ha chiếm 1,76% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Được phân bổ rải rác ở một số vùng cao nhưng chủ yếu tập trung ở huyện Trạm Tấu, Lục Yên, Văn Chấn; trên các khu vực địa hình núi phát triển trên đá vôi, đá macma bazơ hoặc trung tính.
    Nhóm đất này là loại đất hình thành tại chỗ do sự phong hoá của các loại đá macma bzơ hoặc trung tính đá vôi; có độ dốc trên 150, có tầng dày trên 30cm, có khả năng trao đổi cation (CEC) nhỏ hơn hoặc bằng 16me/100gam đất, có dưới 10% khoảng có thể phong hoá, có dưới 10% sét phân tán trong nước.
    Nhìn chung đây là nhóm đất có khả năng phản ứng chua, khả năng hấp thụ không cao, khoáng sét chủ yếu là kaolinit, có quá trình tích luỹ  Fe và Al cao, hạt kết vón tương đối bền. Đây là khả năng thích hợp cho sản xuất nông - lâm nghiệp.
    Nhóm đất mùn Alít núi cao (A)- Alisols (AL):
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 55.078 ha chiếm 8% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Phân bố rải rác ở các huyện, nhưng tập trung nhiều ở các huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, trên địa hình núi cao có độ cao tuyệt đối trên 1.800m.
    Nhóm đất này được hình thành tại chỗ ở độ cao trên 1.800m, nhiệt độ thấp, quá trình tích luỹ mùn chiếm ưu thế, quá trình khoáng hoá yếu, đất có phản ứng chua (Phkcl từ 4-5), độ no bazơ (dưới 30%), hàm lượng mùn ở tầng mặt giàu (trên 5%), các tầng dưới giảm đột ngột, đất phần lớn có tầng mỏng dưới 100 cm.
    Nhóm đất này chủ yếu thích nghi và có khả năng khai thác cho trồng cây dược liệu, trồng và khoanh nuôi rừng phòng hộ.
    Nhóm đất tầng mỏng (E)- Leptols (LP):
    Nhóm đất này có diện tích khoảng 1.824 ha chiếm 0,27% diện tích tự nhiên tòan tỉnh. Phân bố tập trung ở Lục Yên, Văn Yên, Văn Chấn và trên vùng đất đồi có độ dốc trên 200, đất có tầng mỏng dưới 30 cm, có nơi có nhiều đá lộ đầu.
    Nhóm đất này được hình thành trên địa hình cao, phát triển trên các loại đá macma ãit hoặc đá biến chất, đá vôi, tầng đất mỏng lẫn nhiều đá vụn phong hoá dở dang, chủ yếu là do quá trình rửa trôi, xói mòn nên càng ngày càng mỏng, có nơi trơ đá gốc. Đất thường có phản ứng chua (PHkcl< 4,5), độ no bazơ thấp, hàm lượng dinh dưỡng thấp.
  •   TÀI NGHUYÊN KHOÁNG SẢN
    Tiềm năng khoáng sản tỉnh Yên Bái

    Theo báo cáo quy hoạch phân vùng hoạt động khoáng sản tỉnh Yên Bái đến năm 2010, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có 257 mỏ và điểm quặng, với các loại khoáng sản nhiên liệu, khoáng sản kim loại, khoáng sản không kim loại và khoáng chất công nghiệp, khoáng sản quý hiếm đến nước khoáng, nước nóng, cụ thể như sau:

    - Khoáng sản nhiên liệu: Tập trung chủ yếu là than bán antranxit, than nâu và than bùn. Nhưng nhìn chung các điểm than đều có trữ lượng ít, quy mô nhỏ. Được phát hiện ở các huyện Văn Chấn, Lục Yên và Trấn Yên, tài nguyên dự báo khoảng 779.000 tấn.
    - Khoáng sản kim loại và kim loại quý, các khoáng sản chủ yếu gồm: sắt, đồng và chì - kẽm, phân bố không tập trung, theo công tác địa chất đã điều tra trữ lượng chỉ ở mức vừa và nhỏ. Vàng cũng đã được phát hiện ở Yên Bái, vàng gốc được phát hiện chủ yếu ở Trạm Tấu, Mù Cang Chải, vàng sa khoáng phát hiện ở nhiều nơi gần các sông suối.
    Khoáng sản đồng trên địa bàn tỉnh Yên Bái được phát hiện ở xã Phong Dụ Thượng và xã Châu Quế Hạ, huyện Văn Yên (là các điểm mỏ Làng Phát, Làng Nhón, Làng Lòm…); ở huyện Văn Chấn (là các điểm An Lương, Đông An thuộc xã An Lương; điểm Bản Bam thuộc xã Nậm Lành) …
    - Khoáng sản không kim loại: chủ yếu gồm pyrit, barit, phosphorit, kaolin, felspat, thạch anh, grafit. Trong đó đáng chú ý là khoáng sản kaolin và felspat, hai khoáng sản này có chất lượng tương đối tốt đáp ứng được các tiêu chuẩn cho sản xuất gốm sứ, sản xuất giấy. Diện phân bố của chúng rộng tuy nhiên trữ lượng không lớn và không đồng đều. Các khoáng sản còn lại phân bố ở một vài nơi trong tỉnh nhưng chỉ tồn tại với trữ lượng nhỏ hoặc chất lượng thấp.
    - Đá quý: tập trung ở khu vực Lục Yên, Tân Hương - Yên Bình với khoáng vật rubi, saphia, coridon ...
    - Nguyên liệu mài: phân bố ở phần Đông Bắc hai bên bờ sông Chảy thuộc vùng đá biến chất cổ gồm: silimanit - granat. tập trung tại An Phú - Lục Yên, Báo Đáp, Đại Đồng - Yên Bình, Làn Nhơn - Phong Dụ Hạ. Các điểm quặng được đánh giá có triển vọng.
    - Vật liệu xây dựng: gồm có đá vôi, đá hoa calcit, sét các loại, cát - sỏi lòng sông. Đặc biệt là nguồn cát sỏi lòng sông Hồng, sông Chảy...
    + Đá vôi và đá hoa calcit phân bố rộng khắp ở các huyện Lục Yên, Yên Bình, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Trạm Tấu có trữ lượng lớn. Hiện nay đã có một số mỏ khai thác ở quy mô công nghiệp. Đá vôi của Yên Bái có chất lượng tốt, khả năng khai thác làm đá mỹ nghệ, đá ốp lát, vật liệu xây dựng, sản xuất xi măng và đá vôi làm khoáng chất công nghiệp phục vụ xuất khẩu.
    + Các mỏ sét, puzlan của tỉnh ngoài việc dùng sản xuất đồ gốm và gạch ngói, chất lượng mỏ sét còn đáp ứng được cho sản xuất xi măng.
    - Nguyên liệu kỹ thuật: gồm các loại khoáng sản như granat, quarzit, dolomit ... hầu hết các loại khoáng sản này chưa được đánh giá trữ lượng.
    - Khoáng sản talc - được phát hiện ở bản hát lìu, huyện Trạm Tấu - điểm mỏ chưa được điều tra đánh giá trữ lượng.
    - Nước nóng và nước khoáng: Trong toàn tỉnh phát hiện có 16 điểm nước khoáng, nước nóng. Tập trung chủ yếu ở đá phun trào. Nước nóng có nhiệt độ 30 - 50oC. Tổng độ khoáng hoá 1 - 3,3g/l, nước thuộc nhóm sulfat canxi - magnhe có hàm lượng silic và lưu huỳnh cao, có thể sử dụng cho điều dưỡng, chữa bệnh.
    * Trong các loại khoáng sản trên, có một số loại khoáng sản có trữ lượng tài nguyên dự báo tương đối lớn như:
    - Quặng sắt gần 200 Triệu tấn, nhưng chất lượng quặng không cao (hàm lượng trung bình từ 20 – 40%) và phân bố rải rác tập trung chủ yếu tại các huyện Văn Chấn (khu vực làng Mỵ), huyện Trấn Yên (khu vực Làng Thảo, Núi Vi, núi 300), huyện Văn Yên.
    Ngoài ra còn có vùng quặng sắt mới được phát hiện thuộc các xã Nghĩa Tâm, Minh An, Thượng Bằng La của huyện Văn Chấn.
    - Đá ốp lát, mỹ nghệ: khoảng 1.300 triệu m3. Ngoài ra khu vực đá ốp lát, đá mỹ nghệ Suối Giàng - Văn Chấn, khu vực xã Làng Nhì và Tà Si Láng - Trạm Tấu, khu vực đá khối granit Ca Vịnh thuộc huyện Văn Chấn và huyện Trấn Yên được đánh giá là có triển vọng.
    - Đá vôi xi măng và khoáng chất công nghiệp: khoảng 600 triệu m3.
    - Đá vôi làm vật liệu xây dựng thông thường: khoảng 167 triệu m3.
    - Kaolin, felspat: trên 15 triệu tấn, tập trung ở huyện Văn Yên và huyện Trấn Yên.
    - Đất hiếm theo kết quả thăm dò của Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương trữ lượng đất hiếm ở xã Yên Phú, huyện Văn Yên cấp 121 + 121 là 27.681 tấn (TR2O3).
    Một số khoáng sản khác được đánh giá có chất lượng khá tốt như chì - kẽm nhưng phân bố rải rác trữ lượng ít và điều kiện khai thác khó khăn. Mới đây khu vực chì - kẽm Cẩm Nhân, Xuân Lai - Yên Bình đã được điều tra, đánh giá về địa chất và khoáng sản, các khu vực có triển vọng đã được bổ sung vào quy hoạch của cả nước.
    2. Quy hoạch khoáng sản tỉnh Yên Bái
    Để có cơ sở quản lý hoạt động khoáng sản trên địa bàn, tỉnh Yên Bái đã hoàn thành và phê duyệt các quy hoạch sau:
    - Quy hoạch phân vùng hoạt động khoáng sản tỉnh Yên Bái giai đoạn 2006-2010, đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái khoá XVI, kỳ họp thứ 5 thông qua và được Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái phê duyệt tại Quyết định số 82/QĐ-UBND ngày 02/3/2006;
    - Quy hoạch thăm dò, khai thác và chế biến đá vôi trắng giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2015 huyện Lục Yên, đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái khoá XVI, kỳ họp thứ 7 thông qua và Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái phê duyệt tại Quyết định số 325/QĐ-UBND ngày 12/9/2006;
    - Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và than bùn tỉnh Yên Bái giai đoạn 2007-2015, đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái thông qua và Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái phê duyệt tại Quyết định số 532/QĐ-UBND ngày 07/4/2008;
    - Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản sắt, đồng, vàng, chì - kẽm và các khoáng sản khác (trừ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường và than bùn), đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái thông qua và được Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái phê duyệt tại Quyết định số 1459/QĐ-UBND ngày 30/9/2011.
    3. Hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh Yên Bái
    Trên địa bàn tỉnh Yên Bái đã có nhiều dự án đầu tư khai thác, chế biến khoáng sản của các tổ chức trong và ngoài tỉnh, các đơn vị liên doanh với nước ngoài. Nhìn chung, các dự án khai thác, chế biến khoáng sản bước đầu đã đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội, đặc biệt là các dự án khai thác, chế biến đá vôi trắng trong thời gian gần đây đã góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của tỉnh và làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản còn có những nguy cơ như: gây tổn thất tài nguyên khoáng sản, gây tổn hại đến môi trường thiên nhiên...
    Tính đến hết năm 2011, trên địa bàn tỉnh hiện có 53 giấy phép thăm dò (trong đó 04 giấy phép thăm dò còn hiệu lực) gồm: vật liệu xây dựng thông thường 30 giấy phép, đá vôi trắng 15 giấy phép, đất hiếm 01 giấy phép, quặng sắt 02 giấy phép, quặng đồng 02 giấy phép, mangan 01 giấy phép, đá gabro (làm ốp lát) 01 giấy phép. Và 205 giấy phép khai thác khoáng sản (117 giấy phép còn hiệu lực) của các loại khoáng sản như: vật liệu xây dựng thông thường 66 giấy phép, đá vôi trắng 30 giấy phép, Felspat 06 giấy phép, kaolin 04 giấy phép, thạch anh 06 giấy phép, Granit 02 giấy phép, sét làm xi măng 01 giấy phép, than 05 giấy phép, quặng sắt 59 giấy phép, quặng chì – kẽm 18 giấy phép, quặng đồng 01 giấy phép, Grafit 01 giấy phép, quặng vàng gốc 04 giấy phép, đá quý 02 giấy phép./.
    TÀI NGUYÊN NƯỚC
                 
    v      Nước mưa
    Yên Bái thuộc vùng có lượng mưa trung bình, hàng năm có lượng mưa bình quân trong toàn tỉnh là 1.864 mm với tổng lượng nước mưa là 13 tỷ m3 nhưng lượng nước mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo số liệu của cơ quan khí tượng thuỷ văn tỉnh thì tổng lượng mưa trung bình năm của 10 năm trở lại đây ở trạm Yên Bái là 17.517mm, ở trạm Lục Yên 18.042mm, ở Mù Cang Chải là 17.454mm.
    - Về thời gian: Yên Bái có 2 mùa rõ rệt : 80% lượng nước mưa tập trung vào 4 tháng mùa mưa (từ tháng VI đến tháng IX) gây nên nhiều trận lũ lụt ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Còn lại 20% tổng lượng nước mưa ở 8 tháng mùa khô (từ tháng X đến tháng V năm sau) nên không đáp ứng được nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt của đồng bào các dân tộc vùng cao.
    - Về không gian: Yên Bái có nhiều tiểu vùng: Vùng có lượng mưa lớn nhất tỉnh là vùng hạ huyện Trấn Yên, điển hình là Minh Quân có lượng mưa lớn nhất là 2.634 mm/năm. Vùng có lượng mưa nhỏ nhất là thung lũng huyện Văn Yên điển hình là Trái Hút có lượng mưa nhỏ nhất là 975 mm/năm.
    Do lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các tháng trong năm vào những tháng mùa khô lượng mưa trung bình chỉ đạt 52,5mm/tháng nên thường xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Nước mưa là nguồn nước quan trọng tại các vùng gặp khó khăn nguồn nước mặt, nước ngầm.
    v      Nước mặt
    Hai hệ thống sông chính là sông Hồng và sông Chảy, đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy còn khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng hệ thống hồ đầm.
    + Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), chiều dài chảy qua tỉnh Yên Bái là 115 km. Các phụ lưu của sông Hồng trên địa phận Yên Bái, có tới 50 ngòi, có tổng diện tích lưu vực là 2.700 km2. Lớn nhất là ngòi Thia, diện tích lưu vực 1.570 km2, sau đó là ngòi Hút (632 km2), ngòi Lao (519 km2), Ngòi Lâu (250 km2)... Những con ngòi này, cùng với phụ lưu khe suối là nguồn nước chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp và cấp nước sinh hoạt cho nhân dân.
    + Sông Chảy bắt nguồn từ vùng núi Tây Côn Lĩnh (Trung Quốc), với 32 phụ lưu, diện tích lưu vực 2.200 kmvới lượng nước đổ vào trung bình là 5,3 tỷ m3 nước/năm, đoạn chảy qua địa phận Yên Bái có chiều dài 95 km, tại đây đã xây dựng hồ chứa nước Thác Bà, làm nguồn nước cho Nhà máy thuỷ điện Thác Bà Yên Bái. Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam với diện tích 23.400 ha, bao gồm 19.050 ha diện tích mặt nước và 1.331 đồi đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 2,9 tỷ m³ nước là điều kiện để phát triển nguồn thuỷ sinh vật và là nguồn năng lượng phục vụ hoạt động của Nhà máy thuỷ điện Thác Bà - Công trình thuỷ điện đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam. Các phụ lưu của sông Chảy trên đất Yên Bái có tới 23 ngòi và tổng diện tích phụ lưu 1.350 km2.
    + Suối Nậm Kim có tổng diện tích lưu vực 600 km2 là chi nhánh hệ thống sông Đà, có độ dốc lớn nên có khả năng phát triển thuỷ điện.
    + Hệ thống ao hồ với diện tích 20.913 ha, là tiềm năng để phát triển các ngành du lịch và thuỷ sản.
    v      Nước ngầm
    Theo các tài liệu địa chất - thuỷ văn, nguồn nước ngầm và nước khoáng phân bố ở độ sâu 20 - 200 mét dưới lòng đất. Nước khoáng nóng phân bố chủ yếu ở vùng phía Tây thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ, nhiệt độ trên 400C, hàm lượng khoáng hoá 1- 5 gam/lít, có khả năng chữa bệnh khi được xử lý độc tố.

    TÀI NGUYÊN NƯỚC
                 
    v      Nước mưa
    Yên Bái thuộc vùng có lượng mưa trung bình, hàng năm có lượng mưa bình quân trong toàn tỉnh là 1.864 mm với tổng lượng nước mưa là 13 tỷ m3 nhưng lượng nước mưa phân bố không đều theo không gian và thời gian. Theo số liệu của cơ quan khí tượng thuỷ văn tỉnh thì tổng lượng mưa trung bình năm của 10 năm trở lại đây ở trạm Yên Bái là 17.517mm, ở trạm Lục Yên 18.042mm, ở Mù Cang Chải là 17.454mm.
    - Về thời gian: Yên Bái có 2 mùa rõ rệt : 80% lượng nước mưa tập trung vào 4 tháng mùa mưa (từ tháng VI đến tháng IX) gây nên nhiều trận lũ lụt ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Còn lại 20% tổng lượng nước mưa ở 8 tháng mùa khô (từ tháng X đến tháng V năm sau) nên không đáp ứng được nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế đặc biệt là sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt của đồng bào các dân tộc vùng cao.
    - Về không gian: Yên Bái có nhiều tiểu vùng: Vùng có lượng mưa lớn nhất tỉnh là vùng hạ huyện Trấn Yên, điển hình là Minh Quân có lượng mưa lớn nhất là 2.634 mm/năm. Vùng có lượng mưa nhỏ nhất là thung lũng huyện Văn Yên điển hình là Trái Hút có lượng mưa nhỏ nhất là 975 mm/năm.
    Do lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các tháng trong năm vào những tháng mùa khô lượng mưa trung bình chỉ đạt 52,5mm/tháng nên thường xảy ra tình trạng hạn hán, thiếu nước phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân. Nước mưa là nguồn nước quan trọng tại các vùng gặp khó khăn nguồn nước mặt, nước ngầm.
    v      Nước mặt
    Hai hệ thống sông chính là sông Hồng và sông Chảy, đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy còn khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng hệ thống hồ đầm.
    + Sông Hồng bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), chiều dài chảy qua tỉnh Yên Bái là 115 km. Các phụ lưu của sông Hồng trên địa phận Yên Bái, có tới 50 ngòi, có tổng diện tích lưu vực là 2.700 km2. Lớn nhất là ngòi Thia, diện tích lưu vực 1.570 km2, sau đó là ngòi Hút (632 km2), ngòi Lao (519 km2), Ngòi Lâu (250 km2)... Những con ngòi này, cùng với phụ lưu khe suối là nguồn nước chủ yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp và cấp nước sinh hoạt cho nhân dân.
    + Sông Chảy bắt nguồn từ vùng núi Tây Côn Lĩnh (Trung Quốc), với 32 phụ lưu, diện tích lưu vực 2.200 kmvới lượng nước đổ vào trung bình là 5,3 tỷ m3 nước/năm, đoạn chảy qua địa phận Yên Bái có chiều dài 95 km, tại đây đã xây dựng hồ chứa nước Thác Bà, làm nguồn nước cho Nhà máy thuỷ điện Thác Bà Yên Bái. Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam với diện tích 23.400 ha, bao gồm 19.050 ha diện tích mặt nước và 1.331 đồi đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 2,9 tỷ m³ nước là điều kiện để phát triển nguồn thuỷ sinh vật và là nguồn năng lượng phục vụ hoạt động của Nhà máy thuỷ điện Thác Bà - Công trình thuỷ điện đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam. Các phụ lưu của sông Chảy trên đất Yên Bái có tới 23 ngòi và tổng diện tích phụ lưu 1.350 km2.
    + Suối Nậm Kim có tổng diện tích lưu vực 600 km2 là chi nhánh hệ thống sông Đà, có độ dốc lớn nên có khả năng phát triển thuỷ điện.
    + Hệ thống ao hồ với diện tích 20.913 ha, là tiềm năng để phát triển các ngành du lịch và thuỷ sản.
    v      Nước ngầm
    Theo các tài liệu địa chất - thuỷ văn, nguồn nước ngầm và nước khoáng phân bố ở độ sâu 20 - 200 mét dưới lòng đất. Nước khoáng nóng phân bố chủ yếu ở vùng phía Tây thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu và thị xã Nghĩa Lộ, nhiệt độ trên 400C, hàm lượng khoáng hoá 1- 5 gam/lít, có khả năng chữa bệnh khi được xử lý độc tố.
     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét