Thứ Ba, 12 tháng 3, 2013

quạt công nghiệp bán ở tại phan thiết , mua quat cong nghiep phan thiet báo giá rẻ

Nước nghịch ở Hàm Thuận Nam


Bài 1:  Nơi cạn khô, nơi nước nổi

BT- Hết ngày 31/12/2012 là thời điểm UBND huyện Hàm Thuận Nam yêu cầu các đơn vị liên quan đến quản lý, sử dụng hồ Tân Lập ngưng cung cấp nước tưới sản xuất, ưu tiên nước sinh hoạt cho toàn thị trấn Thuận Nam. Từ đó đến nay, thời tiết nắng gắt và gió khô hanh khiến trong dân, hầu như nhà nào cũng có vườn thanh long, đã bùng lên những cuộc tìm kiếm nguồn nước… 
Trộm nước sinh hoạt
Lượng nước hữu ích của hồ Tân Lập vào ngày 1/3 có số tròn 200.000 m3. Vì có đến 1.100.000m3 đã sử dụng cho tưới và sinh hoạt từ sau mùa mưa đến nay nên bây giờ, lượng nước còn lại giống như một cái ao lớn nằm giữa bốn bề đồi bãi. Nước sinh hoạt cho cả thị trấn Thuận Nam kéo dài đến lúc trời có mưa đang trông mong vào chừng ấy  nước. Công suất hoạt động của Nhà máy nước Tân Lập là 2.000m3/ngày đêm nhưng thực tế 2 tháng qua, bình quân lượng nước trong hồ mất đi bình quân 6.000 m3/ ngày đêm. Lượng nước tiêu tốn gấp 3 công suất hoạt động khiến ai cũng nhận ra, ngoài lượng nước bốc hơi theo nắng gió, ngấm vào đất thì chỉ có thể bị trộm.

Hồ Đu Đủ đang cạn nước.
Khi có công văn ngưng cấp nước hồ Tân Lập tưới cho sản xuất phổ biến trong dân thì sau đó, UBND huyện cũng đã thành lập Tổ kiểm tra việc sử dụng, bảo vệ nguồn nước hồ với 12 người thuộc mọi vị trí có liên quan, trong đó có cả công an. Thế nhưng, dù bao nhiêu cuộc truy quét, thu về nào mô tơ, nào ống dây… rồi phân công canh giữ gắt gao nhưng nước trong hồ vẫn cứ bị trộm về khuya để bơm tưới thanh long. Theo tính toán của Chi nhánh Khai thác công trình thủy lợi huyện Hàm Thuận Nam, nếu trong tháng 3, trời không mưa thì theo đà này, nước hồ sẽ bị cạn, trễ nhất vào đầu tháng 4. UBND huyện đang xây dựng phương án cung cấp nước sinh hoạt khi nước hồ Tân Lập cạn và phương án nào cũng chỉ cầm cự chờ mưa…
Tìm nước trong tầng đá
Sau 2 tháng được ưu tiên nhưng nước sinh hoạt đã lâm vào thế nguy. Ở các vườn thanh long, cũng trong chừng ấy thời gian, nước của các giếng khoan, giếng đào, ao trữ nước đã được dùng để tưới và bây giờ đang báo hiệu thiếu nước. Tại những vườn nằm ven QL 1A hay vào sâu bên trong các xã hưởng nước từ hồ Tân Lập, hồ Đu Đủ như Thuận Nam, Tân Lập, Hàm Cường, dây thanh long bị mềm, teo tóp; có nơi dây đã chuyển vàng, những đọt non không đủ sức vươn bị quăn lại. Với mức đầu tư lớn và sự chựng lại của cây khi thiếu nước sẽ mất thời gian để hồi phục, nhất là thời điểm này thanh long đã lên 23.000 đồng/kg khiến nhiều chủ vườn xót, nhưng tất cả đều bất lực vì đã nỗ lực cứu hạn rất nhiều. Trước đó, khi nghe thông báo tình hình thời tiết, mực nước các hồ, các chủ vườn quyết định khoan thêm giếng để có nước tưới. Không phải giếng khoan 20 -30 m dừng ở tầng đất, vì các giếng này đều đang bị khô nước hoặc ít nước mà là giếng khoan sâu khoảng 50 m băng vào tầng đá.
Tức khắc sau đó, 5 - 6  đội khoan giếng ở Đồng Nai ra Hàm Thuận Nam và cuộc truy tìm nguồn nước trong tầng đá bắt đầu từ thời điểm trước tết. Giá khoan giếng bỗng rạch ròi với m bình thường từ 300 - 400.000 đồng/m hay m sâu 500.000 đồng/m, tính ra 1 giếng khoan đá có giá từ 22 - 25 triệu đồng, tăng gần gấp đôi giá giếng khoan bình thường. Dù vậy, có nhà khoan 2 - 3 giếng, mất 60 - 70 triệu đồng nhưng vẫn không nước tưới. Tình hình trên càng khẳng định lượng nước ngầm ở các xã phía Nam huyện đã tụt thấp trầm trọng, do diện tích trồng thanh long tăng vọt cùng với phong trào đào giếng lấy nước ngầm tưới những năm qua.
Ba Bàu đầy nước
Suốt dọc đường qua các xã như Hàm Mỹ, Hàm Kiệm, Hàm Thạnh, Mương Mán, những nơi được hưởng nguồn nước từ Sông Móng -  Ba Bàu, quang cảnh xung quanh trù phú với những vườn thanh long sum suê, một màu xanh non. Nhiều vườn đang tưới thanh long bằng hệ thống phun nước tự động…Tất cả đang nhộn nhịp trong kế hoạch chong điện để thanh long tiếp tục cho lứa trái vụ nghịch, lứa mà theo dự đoán có giá rất cao, vì hàng ít.


Nước nghịch ở Hàm Thuận Nam
BT- Bây giờ đi đến các xã, thị trấn của huyện Hàm Thuận Nam đang đối mặt với hạn, thì thế nào cũng nghe câu nông dân nói “cám treo, heo nhịn”. Vì trên cao kia, hồ Sông Móng đang trữ túi nước hữu ích 20 triệu m3. Làm sao chuyển nguồn nước trên về hồ Tân Lập, Đu Đủ để kịp giải hạn cứ đang nóng trong dân, chính quyền… 
Hạn tới chân
Theo thống kê ban đầu, đến ngày 1/3, trên địa bàn huyện đã có 15 ha lúa, 140 ha thanh long bị khô... Những ngày tới, diện tích thanh long bị thiệt hại do hạn sẽ cứ nhiều dần lên, khi thời tiết vẫn nắng to và gió. Năm nay trời dứt mưa sớm vào giữa tháng 10, sớm hơn bình thường cả tháng nên các hồ như Đu Đủ, Tân Lập, Tà Mon đã nhanh chóng cạn nước sớm, trong khi mùa khô còn những 2-3 tháng nữa mới kết thúc. Cũng chẳng thể hy vọng trời có mưa trong tháng 3 nhờ ảnh hưởng áp thấp nhiệt đới hay bão như năm 2012. Từ đó, áp lực bị hạn gây hại cứ lơ lửng trong dân.
Một số hộ dân ở tại thị trấn Thuận Nam, xã Tân Lập lo ngại, với tình hình này có thể sẽ lặp lại cảnh đảo lộn cuộc sống sinh hoạt, dân sinh vì nước như năm 2010 và có thể còn nghiêm trọng hơn. Riêng giá nước sinh hoạt mua từ các xe bồn chở từ Hàm Mỹ, Hàm Kiệm tới cũng sẽ đắt đỏ. Năm 2010, lúc cao điểm giữa cung cầu, 1 m3 nước có giá từ 80-100 ngàn đồng; còn năm nay giá xăng dầu, giá nước đều tăng không biết sẽ đẩy giá nước bán lẻ lên bao nhiêu. Trong khi đó, các chủ vườn thanh long ở Hàm Cường, Hàm Minh đang còn bấu víu vào lượng nước 400.000 m3 của hồ Đu Đủ. Nhưng theo tính toán của Chi nhánh Khai thác công trình thủy lợi Hàm Thuận Nam thì chỉ một đợt tưới nữa là cạn hồ vào giữa tháng 3. Bị khô, thanh long có thể không chết nhưng không có trái khiến bao nhiêu đầu tư trong dân bị bốc hơi theo nắng, gió. Điều đó cũng có nghĩa gần một nửa diện tích thanh long trên địa bàn huyện đang đứng trước khả năng bị thiệt hại, vì thiếu nước.  

Hồ Sông Móng đang trữ 20 triệu m3 nước
Họp giải hạn
Với sự bức xúc trong dân và tính chất công trình vốn dĩ phục vụ dân sinh kinh tế nên cuộc họp bàn về đền bù giải tỏa kênh chuyển nước hồ Sông Móng - hồ Đu Đủ - hồ Tân Lập của UBND huyện Hàm Thuận Nam diễn ra trong sự chờ đón. Tại đây, nơi có nhiều khu công nghiệp, dự án sẽ hình thành trong tương lai nên cũng nhiều người có đất bị giải tỏa khiến họ thường dị ứng với chuyện đền bù. Nhưng với tuyến kênh này, đại diện các xã, thị trấn có tuyến kênh đi qua như Hàm Minh, Thuận Nam, Hàm Cường…đều thống nhất tập trung vận động dân tạo sự đồng tình để giao đất trước. Đất giao càng sớm, đơn vị thi công đào kênh càng nhanh để đưa nước từ hồ Sông Móng về sẽ có thể kịp giải hạn. Vì thế, việc triển khai từ quy chủ đất chính xác, áp giá đền bù, vận động dân nhận tạm ứng một phần tiền đền bù và giao đất trước khi có quyết định thu hồi đất…được các bên đồng thuận phối hợp làm khẩn trương với thời hạn hoàn tất là 15/3. Ai cũng cảm nhận sự gấp gáp cho ra đời tuyến kênh chuyển nước là giải pháp tốt nhất, bền vững nhất trong các giải pháp chống hạn. 
Khi nghe tin này, nhiều người nhận định rằng, công trình chuyển nước trên triển khai sẽ nhận sự đồng tình cao trong dân các xã, vì dân đã trông chờ công trình từ lâu và nhất là nhu cầu cần giải hạn trước mắt. Mặt khác, chính tuyến kênh này sẽ giúp Hàm Thuận Nam không rơi vào cảnh nước nghịch vì nơi dư nước, nơi khô hạn…Nhưng để xóa bỏ cảnh này trong năm nay, cần nguồn vốn hơn 68 tỷ đồng và một cuộc ra quân thần tốc với thời gian khoảng 60 ngày thì may ra còn kịp.
Túi nước hữu ích hồ Sông Móng
Hồ Sông Móng có dung tích hữu ích 35 triệu m3 nước. Một ít của nguồn nước này đã chuyển về hồ Ba Bàu từ 1 - 2 năm nay nên vùng tưới của Ba Bàu luôn dồi dào nước trong cả mùa khô. Đến thời điểm này, hồ Sông Móng còn trữ 20 triệu m3 nước, trong khi phía dưới các xã, thị trấn đang thiếu nước nên ai cũng ví đó là túi nước đang treo cao. Nếu làm kênh chuyển nước sớm, một lượng nước khoảng 5 triệu m3 của hồ Sông Móng sẽ chuyển về hồ Đu Đủ, hồ Tân Lập còn kịp cứu hạn.
Tính ra, Sông Móng vẫn còn đến 15 triệu m3 nước. Vì thế, Hàm Thuận Nam sẽ không khô hạn, nếu biết khai thác nguồn nước trên. Trong bối cảnh khô hạn khốc liệt này, trong điều kiện ngân sách đang khó khăn, đây là cơ hội trong thách thức của huyện HàmThuận Nam, nếu chính quyền và nhân dân cùng chung sức, năng động sáng tạo trong cách làm để dẫn nước về. 
Bích NghỊ
Tăng cường phòng trừ chuột và bảo vệ mùa màng
BTO - Để chủ động giảm thiểu tác hại do chuột gây ra, góp phần bảo vệ mùa màng trên địa bàn tỉnh và thực hiện Chỉ thị số 485/CT-BNN-BVTV ngày 6/2/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tăng cường phòng trừ chuột và bảo vệ mùa màng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận đã có công văn số 315/SNN-NN ngày 27/2/2013, yêu cầu UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai có hiệu quả Chỉ thị 09/1998/CT-TTg ngày 18/02/1998 của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách diệt trừ chuột, bảo vệ mùa màng
Đồng thời chỉ đạo các Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng Kinh tế phối hợp với Trạm Bảo vệ thực vật xây dựng kế hoạch tổ chức cộng đồng quản lý chuột gây hại mùa màng; phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể và UBND các xã, thị trấn tổ chức, phát động đồng loạt ra quân diệt chuột vào thời kỳ chuột chưa vào mùa sinh sản, giai đoạn chuyển tiếp (khi trắng đồng) giữa các vụ sản xuất, giữa vụ gieo trồng hay các đợt lũ lụt, chuột còn đang co cụm, kết hợp đánh bắt thường xuyên. Mỗi địa phương có thể tiến hành các đợt diệt chuột  từ 5 – 7 ngày bằng các biện pháp thủ công như đào, bắt, bẩy chuột… theo sự hướng dẫn của cơ quan bảo vệ thực vật. Các Trạm Khuyến nông phối hợp với Trạm Bảo vệ thực vật tiến hành tổ chức các buổi tập huấn về các biện pháp diệt trừ chuột đến từng xã, HTX và từng hộ nông dân để thực hiện. Các đơn vị chức năng tăng cường kiểm soát việc kinh doanh thuốc BVTV ở địa phương. Nghiêm cấm việc sử dụng thuốc diệt chuột ngoài danh mục, sử dụng các biện pháp diệt chuột gây nguy hiểm cho người và vật nuôi.
Chi cục Bảo vệ thực vật xây dựng kế hoạch tổ chức cộng đồng quản lý chuột hại, bảo vệ mùa trên phạm vi toàn tỉnh. Hướng dẫn cho các địa phương các biện pháp diệt trừ chuột đạt hiệu quả cao nhất, đồng thời phải đảm bảo an toàn cho người và vật nuôi. Các Trạm Bảo vệ thực vật huyện, thị xã, thành phố tăng cường kiểm tra đồng ruộng, thường xuyên nắm chắc diễn biến, sự phân bố và dự báo khả năng phát sinh gây hại của chuột; phối hợp với Phòng Nông nghiệp và PTNT, Phòng Kinh tế tham mưu đề xuất với UBND huyện, thị xã, thành phố phương án tổ chức cộng đồng để diệt chuột bằng các biện pháp hữu hiệu nhất. Kiểm tra, đôn đốc các địa phương tổ chức triển khai thực hiện các biện pháp diệt chuột.
Hoài Nguyễn

Phan Thiết

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Phan Thiết
—  Thành phố trực thuộc tỉnh

-Trực thuộc tỉnh  Bình Thuận
-Vùng Nam Trung Bộ
-Thành lập thị xã 1898
-Nâng cấp đô thị thời Pháp thuộc 1933
-Nâng cấp thành phố 1999
Người sáng lập vua Thành Thái ra đạo dụ xác lập (1898)
Đặt theo tên Hamu Lithit
Chính quyền
- Kiểu Thành phố trực thuộc tỉnh (tỉnh lị)
- Chủ tịch UBND Đỗ Ngọc Điệp
- Chủ tịch HĐND Đặng Văn Định
- Bí thư Thành ủy Châu Minh Sơn
Diện tích
- Tổng cộng 206 km² (79,5 mi²)
Dân số
- Tổng cộng 216,578 (năm 2.004)
- Mật độ 1,051/km² (2,7/mi²)
Múi giờ G (UTC+7)
Mã bưu chính
Dân tộc Việt, Hoa, Chăm
Biển số xe 86 (theo tỉnh Bình Thuận)
Kinh tế chủ yếu Du lịch, thủy sản.
Hành chính 4 xã, 14 phường
Xếp loại đô thị 2
Phan Thiết là tỉnh lỵ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh Bình Thuận. Phan Thiết nằm trên quốc lộ 1A (chiều dài quốc lộ 1A đi qua là 7 km), trung tâm hành chính Thành phố Phan Thiết cách trung tâm hành chính Thành phố Hồ Chí Minh 183 km về hướng đông bắc. Phan Thiết là đô thị Duyên Hải Cực Nam Trung Bộ, thuộc khu vực Nam Trung Bộ, tuy nhiên, theo quy hoạch phát triển đến năm 2025, nó sẽ là đô thị cấp vùng Đông Nam Bộ[1][2]. Diện tích tự nhiên là 206,45 km², bờ biển trải dài 57,40 km.

Mục lục

  • 1 Địa lý
    • 1.1 Vị trí
    • 1.2 Mở rộng hành chính thành phố
    • 1.3 Địa hình
    • 1.4 Khí tượng-Thủy văn
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Nguồn gốc tên gọi
    • 2.2 Hình thành
    • 2.3 Phát triển
  • 3 Dân cư
  • 4 Các đơn vị hành chính trực thuộc
  • 5 Kinh tế
    • 5.1 Tài nguyên-Khoáng sản
    • 5.2 Công nghiệp
    • 5.3 Ngư nghiệp và nghề sản xuất nước mắm
    • 5.4 Đặc sản ẩm thực
  • 6 Lễ hội văn hóa
    • 6.1 Đua thuyền mừng xuân
    • 6.2 Rước đèn trung thu
  • 7 Di tích lịch sử
  • 8 Danh lam thắng cảnh - Du lịch
    • 8.1 Đặc trưng
      • 8.1.1 Phố Tây ở Phan Thiết
      • 8.1.2 Xích lô du lịch
  • 9 Hình ảnh
  • 10 Chú thích

Địa lý

Vị trí

Thành phố Phan Thiết hình cánh cung trải dài từ: 10°42'10" đến 11° vĩ độ bắc.
  • Phía đông giáp biển Đông.
  • Phía tây giáp huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận.
  • Phía nam giáp biển Đông và huyện Hàm Thuận Nam - tỉnh Bình Thuận.
  • Phía bắc giáp huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Bắc Bình - tỉnh Bình Thuận.
Giữa trung tâm thành phố có sông Cà Ty chảy ngang, chia Phan Thiết thành 2 ngạn:
  • Phía nam sông: khu thương mại, điển hình là Chợ Phan Thiết.
  • Phía bắc sông: gồm các cơ quan hành chính và quân sự trung tâm mới của Phan Thiết đang được xây dựng tại khu vực phường Phú Thủy và Xuân An trên một diện tích 300ha gồm các tòa cao ốc hành chính mới, liên hợp trung tâm thương mại, nhà thi đấu mới Tỉnh Bình Thuận, khu dân cư mới sức chứa 50,000 người cùng nhiều công viên, các khu dịch vụ và trường học.

Mở rộng hành chính thành phố

  • Sau khi được chính phủ công nhận đô thị loại 2 cuối năm 2009. Thành phố Phan Thiết tiếp tục quy hoạch, định hướng phát triển không gian đô thị theo 6 hướng. Hướng tây phát triển theo QL1A tiếp giáp với khu đô thị Ngã Hai và khu công nghiệp Hàm Kiệm; hướng đông bắc phát triển ra trung tâm xã Hàm Thắng và thị trấn Phú Long; hướng bắc phát triển theo QL28; hướng tây bắc phát triển theo tỉnh lộ 718; hướng đông phát triển theo tỉnh lộ 706B, tỉnh lộ 716 và khu vực Hàm Tiến - Mũi Né; hướng tây nam phát triển theo tỉnh lộ 719 hình thành khu đô thị du lịch Tiến Thành. Cơ bản đến năm 2015, sát nhập một số đơn vị hành chính của huyện Hàm Thuận Bắc và huyện Hàm Thuận Nam vào thành phố, dân số đạt trên 312.000 người. Diện tích tự nhiên tăng lên 276,260km2 (tăng 69,8 km2 so với hiện nay), phấn đấu trở thành đô thị loại 1.
  • Đến năm 2025, Phan Thiết trở thành cửa ngõ của vùng kinh tế trọng điểm phía nam, Tây nguyên và Nam Trung bộ; với quy mô dân số nội thành Phan Thiết đạt trên 350.000 người [2]

Địa hình

Phan Thiết có địa hình tương đối bằng phẳng, có cồn cát, bãi cát ven biển, đồi cát thấp, đồng bằng hẹp ven sông. Có 3 dạng chính:
  • Vùng đồng bằng ven sông Cà Ty.
  • Vùng cồn cát, bãi cát ven biển. Có địa hình tương đối cao.
  • Vùng đất mặn: ở Thanh Hải, Phú Thủy, Phú Trinh và Phong Nẫm.

Khí tượng-Thủy văn

Thành phố Phan Thiết nằm trong vùng khô hạn, khí hậu nhiệt đới điển hình, nhiều gió, nhiều nắng, ít bão, không có sương muối, có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26 °C đến 27 °C. Tháng 1, tháng 2 và tháng 12 (nhiệt độ trung bình 25,5 °C) mát hơn so với các tháng khác trong năm. Tháng 4 và tháng 5 là những tháng nóng nhất ở Phan Thiết, nhiệt độ có khi lên đến 29 °C. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm từ 78 đến 80,7%.
Nhiệt độ trung bình/tháng Một Hai Ba Năm Sáu Bảy Tám Chín Mười M.một M.hai
Cao nhất (°C) 29 30 31 32 33 32 31 31 31 31 31 30
Thấp nhất (°C) 22 22 24 26 26 26 25 25 25 25 24 24
Nguồn: msn weather
Phan Thiết có số giờ nắng mỗi năm từ 2500 đến trên 3000 giờ. Lưu lượng mưa hàng năm dao động từ 890,6 mm đến trên 1335 mm.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
Ttb(°C) 26,8 26,9 27,7 26,9 26,9 27,1 27,1 26,9 26,9
Atb(%) 81 79,5 79,2 81 81 80 79 80 79
Mtb(mm) 1.418,8 841,4 1.176,7 1.768 1.545 1.059 1.116 1.134 930
tgn(giờ) 2.540,0 2.871,7 2.651,0 2.569 2.556 2.562 2.903 2.734 3.048
  • Ttb - Nhiệt độ trung bình (°C)
  • tgn - Tổng số giờ nắng (giờ)
  • Atb - Độ ẩm tương đối trung bình (%)
  • Mtb - Lưu lượng mưa trung bình (mm)
Các sông sau chảy qua thành phố:
  1. Sông Cà Ty: 7,2 km
  2. Sông Cát (Suối Cát): 3,3 km
  3. Sông Cái: 1,1 km
  4. Sông Cầu Ké: 5,4 km

Lịch sử

Nguồn gốc tên gọi

Có một số giả thiết về tên gọi của Phan Thiết và phần lớn đều chấp nhận rằng, "Phan Thiết" không phải là một cái tên thuần Việt:
  • Khi chưa có người Việt định cư, người Chăm gọi vùng đất này là "Hamu Lithít" - "Hamu" là xóm ruộng bằng, "Lithít" là ở gần biển. Khi bắt đầu có người Việt định cư, vẫn chưa ai có ý định đặt ngay cho vùng đất này một tên gọi mới bằng tiếng Việt. Lâu dần, âm cuối "Lithit" lại được gắn liền với âm "Phan" tách từ phiên âm của tên hai vùng Phan Rang, Phan Rí mà thành ra Phan Tiết (tên gọi ngày xưa) và sau này người ta gọi chuẩn với cái tên là Phan Thiết.
  • Người Việt đã phiên âm lại cách gọi tên của người Chăm trước đó: Mang-lang (Phan Rang), Mang-lý (Phan Rí), Mang-thít (Phan Thiết). Ba địa danh này được gọi chung là "Tam Phan".
  • Po Thit (hoàng tử em của công chúa Po Sah Inư, con của vua Chăm Par Ra Chanh, tức Trà Chanh) đóng đồn trấn ngữ vùng đất này vào thế kỷ XIV được người Việt đọc trại ra mà thành Phan Thiết.
Ngày nay, yếu tố "Phan" còn xuất hiện nhiều trong các địa danh ở tỉnh Bình Thuận như: Sông Phan, Phan Rí Cửa, Phan Rí Thành, Phan Lâm, Phan Sơn...

Hình thành

  • Vùng đất này khi xưa thuộc vương quốc Chămpa, sau này sáp nhập vào Đại Việt. Hành chính được xác lập cùng thời gian hình thành tỉnh Bình Thuận ngày nay, nhưng khi ấy nó chưa được xác định địa giới và cấp hành chính gì.
  • Năm 1697, Bình Thuận lần lượt được đổi từ một trấn lên thành phủ, rồi lên thành dinh, thì Phan Thiết chính thức được công nhận là một đạo (cùng một lượt với các đạo Phan Rang, Phố Hài, Ma Ly vùng Tam Tân). Tuy nhiên, đạo Phan Thiết lập ra nhưng chẳng có văn bản nào chỉ rõ phạm vi lãnh thổ.
  • Từ năm 1773 đến năm 1801, nơi đây thường diễn ra các cuộc giao tranh ác liệt giữa các lực lượng quân nhà Nguyễn và quân nhà Tây Sơn.
  • Năm 1825, thời Minh Mạng, khi Bình Thuận chính thức trở thành tỉnh, đạo Phan Thiết bị cắt một phần đất nhập vào một huyện thuộc Hàm Thuận (năm 1854, thời Tự Đức, huyện này được đặt tên là huyện Tuy Lý).
  • 1835, tuần vũ Dương Văn Phong thỉnh cầu vua Minh Mạng chuyển tỉnh lỵ của Bình Thuận ở gần Phan Rí (huyện Hoà Đa) lập từ thời Gia Long về đóng ở vùng Phú Tài - Đại Nẫm, huyện Hàm Thuận nhưng vua chưa đồng ý.
  • Năm 1836 (năm Minh Mạng thứ 17), Thị Lang Bộ Hộ là Đào Tri Phủ được cử làm việc đo đạc, lập địa bạ trong số trên 307 xã, thôn thuộc hai phủ, bốn huyện và mười lăm tổng của tỉnh Bình Thuận để chuẩn định và tiến hành đánh thuế. Đo đạc xong ước định vùng Phan Thiết (thuộc tổng Đức Thắng) có chín địa danh trực thuộc. Bên hữu ngạn sông (sông Cà Ty ngày nay) là các xã Đức Thắng, Nhuận Đức, Lạc Đạo và các thôn Thành Đức, Tú Long. Bên tả ngạn là xã Trinh Tường và các thôn Long Khê, Long Bình, Minh Long.
  • Qua nhiều lần thay đổi các đơn vị hành chính, một số thôn nhỏ sáp nhập thành làng lớn, một số địa danh cũ biến mất như Minh Long, Long Bình (thuộc phường Bình Hưng ngày nay), Long Khê (thuộc phường Phú Trinh ngày nay). Một số thôn, xã khác của tổng Đức Thắng như Phú Tài, Phú Hội, Xuân Phong, Đại Nẫm được xem là ngoại vi của Phan Thiết. Một số địa danh thuộc khu vực Phố Hài (phường Phú Hài ngày nay) như Tân Phú, An Hải, An Hoà, Tú Lâm, Sơn Thủy, Thiện Chính, Ngọc Lâm... thuộc về tổng Hoa An (sau đổi lại là tổng Lại An) của huyện Tuy Định. Một số thôn, xã dọc bờ biển như Khánh Thiện, Thạch Long, Long Sơn (thuộc khu vực Rạng - Mũi Né ngày nay) thuộc tổng Vĩnh An của huyện Hòa Đa.
  • Gần cuối thế kỷ 19, Phan Thiết vẫn chưa được công nhận chính thức là một đơn vị hành chính (cấp dưới) trực thuộc tỉnh Bình Thuận.
  • Năm 1898 (năm Thành Thái thứ muời), tỉnh lỵ Bình Thuận được dời về đặt tại làng Phú Tài ở ngoại vi Phan Thiết. Ngày 20 tháng 10 cùng năm, vua Thành Thái ra đạo dụ xác lập thị xã (centre urban) Phan Thiết, tỉnh lỵ của Bình Thuận (cùng ngày thành lập các thị xãHuế, Hội An, Quy Nhơn, Thanh Hoá, Vinh).
  • Năm 1905, thị xã Phan Thiết cũng vẫn chưa xác định rõ ranh giới. Tòa sứ Bình Thuận (bộ máy thống trị của Pháp) do một công sứ (résident) đứng đầu đặt thường trực tại Phan Thiết.
  • Ngày 4 tháng 11 năm 1910, viên toàn quyền Đông Dương A.Klobukowski ra quyết định về Phan Thiết. Lúc này Phan Thiết chính thức bao gồm 16 làng xã. Bên hữu ngạn sông: Đức Thắng, Thành Đức, Nhuận Đức, Nam Nghĩa, Lạc Đạo, Tú Long; bên tả ngạn sông: Long Khê, Phú Trinh, Trinh Tường, Đảng Bình, Quảng Bình, Thiện Mỹ, Thiện Chánh, Xuân Hoà, An Hải, Sơn Thuỷ (năm làng sau trước đây là thuộc khu vực Phố Hài). Có thêm địa danh mới như Nam Nghĩa, Quảng Bình (dân Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Quảng Bình di cư vào Phan Thiết).
  • Ngày 6 tháng 1 năm 1918, Khâm Sứ Trung Kỳ Charles quyết định Phú Hài (tên gọi mới của Phố Hài) tách ra khỏi Phan Thiết để nhập về lại tổng Lại An của huyện Hàm Thuận. Pháp bắt đầu thiết lập bộ máy chính quyền ở Phan Thiết. Thị xã Phan Thiết liên tục làm tỉnh lỵ của tỉnh Bình Thuận từ đó.

Phát triển

  • Sau khi Việt Nam thống nhất hai miền nam bắc (1975), thị xã Phan Thiết tiếp tục làm tỉnh lỵ của tỉnh Thuận Hải.
  • Sau đợt chia tách tỉnh Thuận Hải năm 1992, thị xã Phan Thiết vẫn là tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận ngày nay.
  • Năm 1999, chính phủ Việt Nam quyết định nâng cấp thị xã Phan Thiết thành thành phố Phan Thiết trực thuộc tỉnh Bình Thuận.
Tuy là một thành phố trẻ nhưng theo các nhà nghiên cứu thì "phố cổ" Phan Thiết hình thành trước Nha Trang và Phan Rang.

Dân cư

Dân cư Phan Thiết chủ yếu là người Việt, có một bộ phận người gốc Hoa sinh sống trong trung tâm thành phố, tập trung nhiều ở phường Đức Nghĩa và Lạc Đạo. Dân số của Phan Thiết theo thống kê của Cục thống kê tỉnh Bình Thuận năm 2004 là 216.578 người. Mật độ dân số là 1.051 người/km² toàn thành phố, đặc biệt khu vực trung tâm, như Đức Nghĩa, Đức Thắng, Lạc Đạo,Hưng Long, Bình Hưng mật độ dân số trên 30.000 người/km2. Nếu tính cả cư dân vãng lai đang tạm trú làm ăn sinh sống và học tập tại Phan Thiết thì đông hơn, vào khoảng trên 250.000 dân.

Các đơn vị hành chính trực thuộc

Một góc thành phố Phan Thiết ngày nay.
Sau khi được chính phủ công nhận là thành phố vào năm 1999, Phan Thiết được chia thành 18 đơn vị hành chính gồm 14 phường và 4 xã:
Phan Thiết
Số thứ tự Mã số Tên đơn vị hành chính Khu vực Vùng địa lý
1 22915 Phường Mũi Né Ngoại thành Trung du
2 22918 Phường Hàm Tiến Ngoại thành Trung du
3 22921 Phường Phú Hài Nội thành Trung du
4 22924 Phường Phú Thủy Nội thành Đồng bằng
5 22927 Phường Phú Tài Nội thành Trung du
6 22930 Phường Phú Trinh Nội thành Đồng bằng
7 22933 Phường Xuân An Nội thành Trung du
8 22936 Phường Thanh Hải Nội thành Đồng bằng
9 22939 Phường Bình Hưng Nội thành Đồng bằng
10 22942 Phường Đức Nghĩa Trung tâm Đồng bằng
11 22945 Phường Lạc Đạo Trung tâm Đồng bằng
12 22948 Phường Đức Thắng Nội thành Đồng bằng
13 22951 Phường Hưng Long Nội thành Đồng bằng
14 22954 Phường Đức Long Nội thành Đồng bằng
15 22960 Xã Phong Nẫm Ngoại thành Đồng bằng
16 22963 Xã Tiến Lợi Ngoại thành Trung du
17 22957 Xã Thiện Nghiệp Ngoại thành Trung du
18 22966 Xã Tiến Thành Ngoại thành Trung du

Kinh tế

Một địa điểm thành phố bên sông Cà Ty.
Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, về mặt dân số cũng như kinh tế, Phan Thiết đã là một đô thị lớn của vùng duyên hải Trung kỳ. Phố Hài, Mũi Né là những cửa biển sầm uất với ghe thuyền từ Trung Kỳ, Nam Kỳ đến chở nước mắm, cá khô, dầu rái, trầm hương... vào Sài Gòn, ra Đà Nẵng buôn bán. Thậm chí có cả tàu thuyền Trung Quốc từ Quảng Đông, Hải Nam - qua đường biển từ Hội An - đến giao thương[3].
Trong những năm đầu thế kỷ 21, nền kinh tế thành phố Phan Thiết tăng trưởng với nhịp độ khá (tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm là 14.04%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch, ngư, nông lâm nghiệp, tiềm năng kinh tế từng bước khai thác có hiệu quả, các thành phần kinh tế được khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.

Tài nguyên-Khoáng sản

Phan Thiết với 57,4 km bờ biển có nhiều tiềm năng để phát triển nghề làm muối, du lịch. Tài nguyên sinh vật biển rất phong phú và đa dạng có khả năng khai thác 60 nghìn tấn/năm; ngoài ra còn có nguồn lợi thủy sản có giá trị hàng năm có thể khai thác 600-700 tấn tôm các loại, 3.200 - 3.500 tấn mực, 10.000-12.000 tấn sò điệp, sò lông và các loại hải sản khác.
Phan Thiết có 260 hécta mặt nước có thể đưa vào nuôi tôm, làm ruộng muối, trong đó diện tích có khả năng nuôi tôm là 140 ha.
Ven biển Phan Thiết có các bãi biển bờ thoải, cát trắng mịn, môi trường trong sạch, bãi tắm tốt như Đồi Dương - Vĩnh Thủy, Rạng, Mũi Né... cùng với các phong cảnh đẹp: tháp Po Sah Inư, Lầu Ông Hoàng, Suối Tiên (Hàm Tiến), rừng dừa Rạng - Mũi Né, Tiến Thành và khu di tích Dục Thanh có điều kiện thu hút khách du lịch.
Với diện tích 19.180 ha, Phan Thiết có 4 loại đất chính:
  • Cồn cát và đất cát biển, diện tích 15.300 ha (79,7% diện tích tự nhiên). Cồn cát trắng 990 ha; cồn cát xám vàng 1450 ha; đất cồn cát đỏ 8.920 ha; đất cát biển 3940 ha. Trên loại đất này có thể khai thác để trồng dưa, đậu, điều, dừa.
  • Đất phù sa, diện tích 2.840 ha (14,8% diện tích tự nhiên). Gồm đất phù sa được bồi 1.140 ha; đất phù sa không được bồi 1.400 ha; đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng 300 ha. Hầu hết diện tích đất này đã được khai thác trồng lúa nước, hoa màu, cây ăn quả...
  • Đất vàng trên đá Mácmaxít-granít, diện tích 540 ha (2,82% diện tích tự nhiên). Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ, diện tích 350 ha (1,82% diện tích tự nhiên). Trên các loại đất này có thể sử dụng xây dựng cơ bản và các mục đích nông, lâm nghiệp.
Khoáng sản: có mỏ Imenít-Zircon ven biển Hàm Tiến - Mũi Né có trữ lượng 523,5 ngàn tấn. Mỏ đá Mico-granít ở Lầu Ông Hoàng với trữ lượng 200.000 tấn có thể sản xuất men sứ. Mỏ cát thủy tinh dọc theo các đồi cát ven biển Nam Phan Thiết có trữ lượng khoảng 18 triệu tấn. Tại vùng biển ngoài khơi thành phố Phan Thiết đã phát hiện ra mỏ dầu và đang được tiến hành khai thác thử nghiệm.

Công nghiệp

Khu công ngghiệp Phan Thiết.
Khu công nghiệp phát triển nằm kề ngay trung tâm thành phố Phan Thiết, trên giao lộ Quốc lộ 1A (xuyên Việt) và Quốc lộ 28 (Phan Thiết - Lâm Đồng), cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km, cách Nha Trang 250 km, cách Vũng Tàu 150 km và Đà Lạt 165 km. Ngoài ra, trong nội thành còn có các cơ sở công nghiệp thực phẩm, chế biến thủy hải sản, các cơ sở thủ công mỹ nghệ.

Ngư nghiệp và nghề sản xuất nước mắm

Ngư nghiệp là ngành nghề lâu đời của người Phan Thiết. Cùng với La Gi và Phú Quý, Phan Thiết là ngư trường lớn của tỉnh Bình Thuận. Song song đó, Phan Thiết là nơi được thiên nhiên ưu đãi một khí hậu tự nhiên phù hợp với nghề sản xuất nước mắm. Biến thiên nhiệt độ giữa các tháng không lớn, ít mưa, nhiều nắng và gió là những điều kiện tự nhiên lý tưởng cho quá trình cá chín trong muối. Nhờ đó, nước mắm Phan Thiết có hương vị đặc trưng mà nước mắm ở những nơi khác không thể có.

Đặc sản ẩm thực

Mực một nắng sau khi được chế biến
  1. Nước khoáng Vĩnh Hảo
  2. Mực một nắng
  3. Bánh căn
  4. Nước mắm Phan Thiết
  5. Gỏi cá (cá suốt, cá mai, cá đục)
  6. Mỳ Quảng Phan Thiết
  7. Bánh rế
  8. Cốm hộc
  1. Bánh xèo Phan Thiết
  2. Trái thanh long
  3. Dông cát nướng sa tế
  4. Dừa "ba nhát"
  5. Bánh canh cá
  6. Cá bò hấp, nướng
  7. Cá mú um bún
  8. Lẩu cá

Lễ hội văn hóa

Đua thuyền mừng xuân

Cứ vào mùng 2 tết Nguyên Đán hằng năm, trên sông Cà Ty lại diễn ra lễ hội đua thuyền truyền thống mừng xuân. Những thuyền đua được trang trí bằng cờ, hoa và biểu ngữ rực rỡ sắc màu hòa lẫn trong tiếng trống, tiếng nhạc cùng tiếng reo hò cổ vũ của người dân và du khách tạo nên một không khí rộn ràng, sôi động mang đậm nét văn hóa truyền thống của địa phương.

Rước đèn trung thu

Di tích lịch sử

  • Tháp nước Phan Thiết
  • Mũi Né
  • Hòn Rơm
  • Bãi tắm Đồi Dương
  • Đồi Cát Mũi Né
  • Suối Tiên
  • Tháp Chăm Po Sah Inư
  • Trường Dục Thanh
  • Lầu Ông Hoàng
  • Vạn Thủy Tú
  • Chùa Liên Trì
  • Mộ Nguyễn Thông
  • Hải đăng Khe Gà
  • Chùa Ông (Quan Đế Miếu)
  • Đình Đức Thắng
  • Đình Đức Nghĩa
  • Chùa Bà Thiên Hậu
  • Chùa Phật Quang
  • Chùa núi Tà Cú
  • Bàu Trắng

Danh lam thắng cảnh - Du lịch

Đặc trưng

Sông Cà Ty (Phan Thiết) về đêm.

Phố Tây ở Phan Thiết

Con đường Nguyễn Đình Chiểu - khu Hàm Tiến tại Phan Thiết đang dần hình thành một mô hình "phố Tây". Con đường tuy nhỏ, nhưng bên phải là bờ biển trong vắt với hệ thống resort, nhà nghỉ, khách sạn cao cấp nằm san sát nhau; còn bên trái thì có khoảng vài chục cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, hàng lưu niệm, internet, giặt ủi, cho thuê xe đạp đôi, xe máy để giải trí với những bảng hiệu được viết bằng hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Anh.
Nhiều nhất ở con phố này là các nhà hàng phục vụ thức ăn nhanh, hải sản kiểu Việt Nam, Ý, Mỹ, các quán bar thiết kế phong cách châu Âu và do chính người nước ngoài phục vụ.
Tuy không sầm uất bằng các khu phố Tây ở Thành phố Hồ Chí Minh hay Nha Trang, nhưng hầu hết du khách nước ngoài đều thích thú với không khí ở đây. Những resort hiện đại ở Mũi Né, không gian yên tĩnh, cung cấp đầy đủ các trò chơi, giải trí cho du khách, đặc biệt là du khách nước ngoài như xuồng cao su, ván lướt sóng, phao bơi với đội ngũ cứu hộ chuyên nghiệp.

Xích lô du lịch

Khi đến muốn thong thả dạo chơi và tham quan vòng quanh thành phố, du khách có thể thuê xe xích lô.

Hình ảnh

  1. ^ Phan Thiết thuở ban đầu

  Bình Thuận

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bình Thuận
Tỉnh

Biểu trưng

Thuyền chài Mũi Né
Địa lý
Tọa độ: 11°06′01″B 108°08′28″Đ
Diện tích 7.812,9 km²[1]
Dân số 2011
Tổng cộng 1.180.300 người[1]
Mật độ 151 người/km²
Dân tộc Việt, Chăm, Hoa, Ra Glai, Cơ Ho
Hành chính
Quốc gia  Việt Nam
Vùng Nam Trung Bộ
Tỉnh lỵ Thành phố Phan Thiết
Chính quyền
Chủ tịch UBND Lê Tiến Phương
Chủ tịch HĐND Nguyễn Mạnh Hùng
Bí thư Tỉnh ủy Huỳnh Văn Tí
Phân chia hành chính 1 thành phố, 1 thị xã, 8 huyện
Mã hành chính VN-40
Mã bưu chính 80xxxx
Mã điện thoại 62
Biển số xe 86

Tọa độ: 11°06′01″B 108°08′28″Đ
Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ Việt Nam, với bờ biển dài 192 km từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná (Ninh Thuận) đến bãi bồi Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu). Phía bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía tây bắc giáp tỉnh Lâm Đồng, phía tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía tây nam giáp tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết, cách Thành phố Hồ Chí Minh 183 km.

Mục lục

  • 1 Diện tích
  • 2 Vị trí địa lý
    • 2.1 Bình Thuận thuộc vùng nào?
  • 3 Dân cư
  • 4 Hành chính
  • 5 Biển số xe
  • 6 Địa hình
  • 7 Khí hậu
  • 8 Giao thông
    • 8.1 Đường bộ
    • 8.2 Xe buýt
  • 9 Điện năng
  • 10 Cung cấp nước
  • 11 Lịch sử
  • 12 Bề dày văn hoá
  • 13 Kinh tế
    • 13.1 Thủy sản
    • 13.2 Nông - Lâm nghiệp
    • 13.3 Khoáng sản
    • 13.4 Du lịch
  • 14 Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử - văn hóa
    • 14.1 Danh lam thắng cảnh
    • 14.2 Di tích lịch sử - Văn hóa
  • 15 Kết nghĩa
  • 16 Những cái nhất
  • 17 Hình ảnh
  • 18 Chú thích
  • 19 Liên kết ngoài

Diện tích

  • Tổng diện tích: 7.828 km²[cần dẫn nguồn]
  • Chiều dài bờ biển: 192 km[cần dẫn nguồn]
  • Diện tích vùng lãnh hải: 52.000 km²[cần dẫn nguồn]
Diện tích qua các thời kỳ:
  • 1991 (số liệu Tổng cục Thống kê): 7.892 km²[cần dẫn nguồn]
  • 1994-1998: 7.992 km²[cần dẫn nguồn]
  • 1999 (Tổng điều tra dân số): 7.828 km²[cần dẫn nguồn]
  • 2001 7.892 km²[cần dẫn nguồn]
  • 2004: 7.828,4 km²[cần dẫn nguồn]
  • 2005: 7.830,47 km²[cần dẫn nguồn]

Vị trí địa lý

Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ, thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ và nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ Nam sang Tây của phần còn lại của đất nước trên bản đồ chữ S.
  • Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
  • Đông Bắc tỉnh Ninh Thuận.
  • Tây giáp tỉnh Đồng Nai.
  • Tây Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu.
  • Đông và Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km.

Bình Thuận thuộc vùng nào?

Địa giới của tỉnh Bình Thuận hiện tại bao gồm diện tích của 2 tỉnh cũ: tỉnh Bình Tuy (nửa phía nam) và tỉnh Bình Thuận (nửa phía bắc). Trước năm 1975, tỉnh Bình Tuy thuộc miền Đông Nam Bộ, và tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ. Vì thế, đến khi hai tỉnh cũ này hợp nhất thành tỉnh Bình Thuận ngày nay mới đặt ra vấn đề là tỉnh Bình Thuận hiện tại thuộc khu vực Đông Nam Bộ hay Nam Trung Bộ?
  • Quan điểm thuộc Đông Nam Bộ: Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số tài liệu lấy số liệu của Tổng cục Thống kê) xếp Bình Thuận cùng Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ[2]. Còn website của Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cũng xếp 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ trong số liệu thống kê vùng Đông Nam Bộ[3], nhưng ở phần khác lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào "vùng Duyên hải miền Trung", tách biệt với Đông Nam Bộ[4]. Bình Thuận thuộc quân khu 7 (quân khu thuộc [Đông Nam Bộ]. Ngoài ra, Bộ Thông Tin và Truyền Thông cũng xếp Bình Thuận vào Đông Nam Bộ theo tọa độ địa lý các đơn vị hành chính (Bình Thuận có vĩ tuyến cùng Bắc với Đồng Nai, Bình Dương, thấp hơn vĩ tuyến Bắc so với Bình Phước, Tây Ninh, trung tâm tỉnh lỵ là thành phố Phan Thiết nằm cũng vĩ tuyến Bắc so với Thành phố Hồ Chí Minh, thấp hơn đôi chút so với Biên Hòa, Thủ Dầu Một.) Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Thuận thuộc hệ thống các đài truyền hình miền Đông (tức Đông Nam Bộ) nên thường sản xuất các chương trình truyền hình nói về miền Đông và phát sóng trao đổi với các tỉnh ở miền Đông.
  • Quan điểm thuộc Nam Trung Bộ: Phần lớn sách báo, trong đó có các sách giáo khoa, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, website chính thức của tỉnh Bình Thuận[5] xếp Bình Thuận vào vùng duyên hải Nam (hoặc cực Nam) Trung Bộ. Xét về mặt Địa lý và con Người nếu xếp Bình Thuận vào Đông Nam Bộ sẽ rất vô lý (Về địa lý Bình Thuận có rất nhiều điểm chung với các tỉnh Nam trung bộ khác, hầu như không có hoặc rất ít điểm chung với các tỉnh Đông Nam bộ, xét về vĩ độ của Bình Thuận khá thấp so với nhiều tỉnh Đông Nam bộ nhưng nếu ghép Bình Thuận vào Đông Nam Bộ thì nhìn vào bản đồ Nam Bộ sẽ có một phần lấn ra phía đông bắc nhìn rất bất hợp lí. Về văn hóa-con người Bình Thuận mang đậm nét của Nam Trung Bộ, giọng nói của người Bình Thuận tuy có phần nhẹ hơn các tỉnh Nam Trung Bộ khác nhưng vẫn mang nét rất đặc trưng của con người vùng biển Nam trung Bộ). Xét về mặt lịch sử thì Bình Thuận chỉ được xếp vào Nam Kỳ trong thời gian khoảng 1 năm (1883-1884), sau đó lại trả về Trung Kỳ cho tới nay.
Nói tóm lại, Bình Thuận được xếp vào Đông Nam Bộ về kinh tế và quân sự. Tuy nhiên về chính trị lại được xếp vào vùng Nam Trung Bộ

Dân cư

  • Dân số: 1.169.450 người (điều tra dân số 01/04/2009)[cần dẫn nguồn]
  • Mật độ: 149 người/km²[cần dẫn nguồn]
  • Số nam: 590.671 người; số nữ: 578.779 người[cần dẫn nguồn]
  • Thành thị: 460.800 người; nông thôn: 708.650 người[cần dẫn nguồn]
Có 34 dân tộc cùng sinh sống ở Bình Thuận, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh; tiếp đến là các dân tộc Chăm, Ra Glai, Hoa (tập trung nhiều ở phường Đức Nghĩa - thành phố Phan Thiết), Cơ Ho, Tày, Chơ Ro, Nùng, Mường.
Dân số qua các thời kỳ:
  • 1991 (số liệu Tổng cục Thống kê): 812.547 người[cần dẫn nguồn]
  • 1992: 830.000 người[cần dẫn nguồn]
  • 1993: 858.700 người[cần dẫn nguồn]
  • 1994: 882.200 người[cần dẫn nguồn]
  • 1995: 924.500 người [cần dẫn nguồn]
  • 1996 (số liệu Tổng cục Thống kê): 951.700 người [cần dẫn nguồn]
  • 1997: 963.700 người [cần dẫn nguồn]
  • 1998: 1.047.400 người [cần dẫn nguồn]
  • 1999 (Tổng cục Thống kê): 1050.900 người (trung bình năm) [cần dẫn nguồn]
  • 2000 (Tổng cục Thống kê): 1065.900 người [cần dẫn nguồn]
  • 2001: 1.079.700 người[cần dẫn nguồn]
  • 2002: 1.096.700 người[cần dẫn nguồn]
  • 2003: 1.120.000 người[cần dẫn nguồn]
  • 2004 (Tổng cục Thống kê): 1.135.900 người (trung bình năm)[cần dẫn nguồn]
  • 2005: 1.157.332 người (trung bình năm)[cần dẫn nguồn]
  • 2007: 1.170.700 [6]
  • 2011: 1.180.300 người [7]

Hành chính



PT
TP
BB
HTB
TL
ĐL
HT
HTN
LG
PQ
Hiện nay Bình Thuận có 10 đơn vị hành chính bao gồm:
  • Thành phố Phan Thiết: 14 phường và 4 xã
  • Thị xã La Gi: 5 phường và 4 xã
  • Huyện Tuy Phong: 2 thị trấn và 11 xã. Đang phê duyệt nâng cấp Thị Trấn Phan Rí Cửa lên Thị xã Phan Rí Cửa
  • Huyện Bắc Bình: 2 thị trấn và 16 xã
  • Huyện Hàm Thuận Bắc: 2 thị trấn và 15 xã
  • Huyện Hàm Thuận Nam: 1 thị trấn và 12 xã
  • Huyện Tánh Linh: 1 thị trấn và 13 xã
  • Huyện Hàm Tân: 2 thị trấn và 8 xã
  • Huyện Đức Linh: 2 thị trấn và 11 xã
  • Huyện đảo Phú Quý: 3 xã
Bình Thuận có 127 xã, phường và thị trấn

Biển số xe

  • Thành phố Phan Thiết 86-C1 XXX.XX
  • Huyện Tuy Phong 86-B1 XXX.XX
  • Huyện Bắc Bình 86-B2 XXX.XX
  • Huyện Hàm Thuận Bắc 86-B3 XXX.XX
  • Huyện Hàm Thuận Nam 86-B4 XXX.XX
  • Huyện Hàm Tân 86-B5 XXX.XX
  • Thị xã La Gi 86-B6 XXX.XX
  • Huyện Tánh Linh 86-B7 XXX.XX
  • Huyện Đức Linh 86-B8 XXX.XX
  • Huyện Phú Quý 86-B9 XXX.XX

Địa hình

Địa hình Bình Thuận bao gồm 4 dạng cơ bản: núi thấp, gò đồi, đồng bằng, đồi cát và cồn cát ven biển. Ngoài khơi có một số đảo, trong đó có 10 đảo của huyện đảo Phú Quý, cách thành phố Phan Thiết 120 km. Trên địa bàn tỉnh có một số núi cao như: Đa Mi (1.642 m), Dang Sruin (1.302 m), Ông Trao (1.222 m), Gia Bang (1.136 m), núi Ông (1.024 m) và Chi Két (1.017 m). Một số nhánh mũi chạy ra sát biển tạo nên các mũi La Gàn, Kê Gà, Mũi Né, Hòn Rơm và Mũi Nhỏ.

Khí hậu

Tỉnh Bình Thuận nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với 2 mùa rõ rệt:
  • Mùa mưa: từ tháng 5 đến tháng 10
  • Mùa khô: từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
  • Nhiệt độ trung bình: 26 - 27°C
  • Lượng mưa trung bình:800 – 1150 mm
  • Độ ẩm tương đối: 79%
  • Tổng số giờ nắng: 2.459

Giao thông

Thành phố Phan Thiết cách Thành phố Hồ Chí Minh 183 km, cách Hà Nội 1.518 km.

Đường bộ

Là tỉnh nằm trên trục giao thông trọng yếu Bắc - Nam, hiện nay, Bình Thuận có ba tuyến quốc lộ chạy qua, tất cả đều đã được nâng cấp, mở rộng hoàn toàn.
  • Quốc lộ 1A xuyên Việt (chiều dài đi qua tỉnh là 178 km)
  • Quốc lộ 55 đi Bà Rịa - Vũng Tàu
  • Quốc lộ 28 từ thành phố Phan Thiết đi huyện Di Linh của tỉnh Lâm Đồng.
Các tuyến đường đến các trung tâm huyện, xã, vùng núi và các vùng kinh tế quan trọng khác cũng đang được chính quyền địa phương huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp, mở rộng và kéo dài thêm đảm bảo cho sản xuất, lưu thông hàng hóa và đi lại của nhân dân.
  • Đường sắt Bắc - Nam qua tỉnh với chiều dài 190 km và qua 11 ga, quan trọng nhất là ga Mương Mán. Trong thời gian tới, tỉnh sẽ xây mới ga Phan Thiết nhằm phục vụ du lịch.
  • Đường biển: Là một tỉnh duyên hải có vùng biển rộng, bờ biển dài 192 km, có hải đảo và nằm cạnh đường hàng hải quốc tế. Hiện tại, cảng biển Phú Quý đã xây dựng xong, tiếp nhận tàu 10.000 tấn ra vào. Cảng Phan Thiết đang được xây dựng tiếp nhận tàu 2.000 tấn.
  • Đường hàng không: Để phục vụ nhu cầu đi lại, nhất là đối với khách du lịch, nhà đầu tư ngày càng nhiều, tỉnh Bình Thuận đang kêu gọi đầu tư để khôi phục lại sân bay Phan Thiết.
  • Các dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Bình Thuận

Xe buýt


Hiện đang hoạt động các tuyến:
  •  Tiến Lợi - Mũi Né - Hòn Rơm
  •  Tiến Lợi - Ma Lâm - Hàm Trí
  •  Phan Thiết - Phú Long - Ngã ba Gộp - Lương Sơn
  •  Tà Cú - Phan Thiết - Phú Long
  •  Phan Thiết - Kê Gà - Tân Thành
  •  Phan Thiết - Mương Mán - Hàm Cần
  •  La Gi - Tân Hải - Bình Châu (Bà Rịa - Vũng Tàu)
  •  Bến xe Nam Phan Thiết – Bệnh viện tỉnh – Mũi Né – du lịch Gành

Điện năng

Có 3 nguồn điện chính:
  • Từ nhà máy thủy điện Đa Nhim qua lưới truyền tải 110 KV
  • Từ nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi qua lưới truyền tải 110 KV
  • Trạm phát điện diesel 3800 KW
  • Đang xây dựng thử nghiệm nhà máy phong điện (năng lượng điện từ sức gió) tại huyện Tuy Phong[8].
  • Nhà máy phong điện tại Phú Quý
Trong đó, cung cấp điện cho khu vực thành phố Phan Thiết có trạm biến áp trung tâm Phan Thiết công suất 50 MVA, và sẽ được nâng cấp mở rộng lên 80-100 MVA. Hệ thống lưới điện tại Thành phố Phan Thiết cũng đang được nâng cấp cải tạo, đáp ứng đủ các nhu cầu khu dân cư và khu công nghiệp Phan Thiết.

Cung cấp nước

Nhà máy nước Phan Thiết có công suất 25.000 m³/ngày đêm, hiện đang nâng cấp, mở rộng hệ thống đường ống bằng nguồn vốn ADB, đảm bảo đáp ứng đủ các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Tại các huyện đều có trạm cấp nước quy mô nhỏ 500–2000 m³/ngày đêm.

Lịch sử

Tòa nhà Trung tâm Hội nghị Tỉnh Bình Thuận
Đất Bình Thuận nguyên thuộc nước Nhật Nam ngày xưa, sau là đất của Chiêm Thành. Vì chiến tranh liên miên nên Chiêm Thành mất dần đất đai.
  • Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần đánh chiếm đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), và chỉ để lại mảnh đất phía Tây cho Chiêm Thành.
  • Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn mảnh đất còn lại đặt tên là Thuận Phủ và năm 1694 đặt là Thuận Thành trấn.
  • Năm 1697: Lập Bình Thuận phủ gồm 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Sau cải thành Bình Thuận Dinh. Đời vua Gia Long vẫn giữ Bình Thuận dinh, đến vua Minh Mạng đổi lại Bình Thuận phủ.
  • Năm 1827: Minh Mạng đặt ra hai phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận và hai huyện Tuy Phong và Tuy Định. Bình Thuận được đặt thành tỉnh và giao cho quan Tuần phủ Thuận Khánh kiêm nhiệm luôn tỉnh Khánh Hòa.
  • Năm 1883: Hòa ước ký với Pháp (ngày 23 tháng 7) sáp nhập Bình Thuận vào Nam Kỳ.
  • Năm 1884: Hòa ước Patenôtre (ngày 6 tháng 6) lại đưa Bình Thuận về Trung Kỳ.
  • Năm 1888, vua Đồng Khánh chuyển phủ Ninh Thuận vào Khánh Hòa.
  • Năm 1900, vua Thành Thái đặt huyện Tuy Lý và lấy huyện Tánh Linh trước thuộc Đồng Nai Thượng sáp nhập vào Bình Thuận.
  • Năm 1905: Phủ Di Linh được nhập vào Bình Thuận.
  • Năm 1955 -1975:chính quyền Việt Nam Cộng Hòa chia Bình Thuận làm 8 Quận: Hàm Thuận, Phú Quý, Thiện Giáo, Hải Long, Hải Ninh, Hòa Đa, Tuy Phong và Phan Lý Chàm.
  • Năm 1976: Bình Thuận sáp nhập với Bình Tuy và Ninh Thuận thành tỉnh Thuận Hải.
  • Đến tháng 4 năm 1992, Thuận Hải lại chia ra thành hai tỉnh riêng: Bình Thuận và Ninh Thuận. Quyết định chia tách ghi ngày 26 tháng 12 năm 1991.
Bình Thuận bây giờ vẫn bao hàm cả Bình Tuy (huyện Hàm Tân bây giờ).

Bề dày văn hoá

Tháp nước
Bình Thuận có bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời, nhất là văn hoá Chăm pa với nhóm di tích Tháp Po Sah Inư, đền thờ Po Klong Mơhnai và hơn 100 bảo vật hoàng tộc Chăm nguyên gốc quý hiếm được bà Nguyễn Thị Thềm, hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trong đó có vương miện, áo bào, hia hài, vòng xuyến của vua và hoàng hậu.
Người Chăm là một trong những người đầu tiên phát hiện ra công dụng của nước khoáng Bình Thuận. Họ đã dùng nước khoáng này chữa bệnh và chế nước thơm rửa tượng thánh. Bằng nước khoáng Bình Thuận, vào thế kỷ 13, người Chăm đã chữa khỏi bệnh phong cho vua Chế Mân của họ. Công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần và cũng là hoàng hậu của vua Chế Mân rất ngạc nhiên về sự màu nhiệm, huyền bí của suối nước này nên đã đặt tên suối là Vĩnh Hảo (nghĩa là "đời đời tốt đẹp"). Người Pháp cũng khai thác nước khoáng Vĩnh Hảo từ năm 1920. Đến nay, nước khoáng Vĩnh Hảo đã nổi tiếng trong nước và đang từng bước vươn ra xuất khẩu trên thị trường các nước trong khu vực và thế giới.

Kinh tế

Theo sự sắp đặt về kinh tế, hiện nay, Bình Thuận là tỉnh thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Phần đất liền của Bình Thuận nằm trong giới hạn 10°35'-11°38' Bắc và 107°24'-108°53' Đông.

Thủy sản

Nhiều sông suối bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh thuộc Lâm Đồng đã chảy qua Bình Thuận để ra biển. Tính chung, các đoạn sông qua Bình Thuận có tổng chiều dài 663 km, trong đó có sông Cà Ty (76 km), sông La Ngà (74 km), sông Quao (63 km), sông Lòng Sông (43 km), sông Phan (40 km), sông Mao (29 km) và sông Luỹ (25 km).
Bình Thuận có vũng lãnh hải rộng 52 nghìn km² nên Bình Thuận là một trong ba ngư trường lớn của Việt Nam trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt 240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu. Sò điệp là đặc sản của biển Bình Thuận, tập trung ở 4 bãi chính là: La Khế, Hòn Rơm, Hòn CauPhan Rí, cho phép đánh bắt 25-30 nghìn tấn/năm.

Nông - Lâm nghiệp

Tỉnh Bình Thuận có 151.300 ha đất canh tác nông nghiệp, trong đó có trên 50.000 ha đất lúa. Sẽ phát triển thêm 100.000 ha đất sản xuất nông nghiệp.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm khá phát triển. Đang đầu tư để hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả với:
  • 18.000 ha thanh long
  • 30.000 ha điều
  • 15.000 ha bông vải
  • 20.000 ha cao su
  • 2.000 ha tiêu
Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển các ngành công nghiệp chế biến từ cây công nghiệp, lương thực, thực phẩm... Với diện tích 400.000 ha rừng và đất lâm nghiệp, trữ lượng gỗ 25 triệu m³ và thảm cỏ là tiền đề thuận lợi để lập các nhà máy chế biến gỗ và phát triển các trang trại chăn nuôi đại gia súc và lập nhà máy chế biến thịt bò, heo... Trong vài năm trở lại đây, diện tích cây điều bị sụt giảm đáng kể do giá hạt điều bị giảm, cây thanh long và cây cao su liên tục tăng diện tích.

Khoáng sản

Tỉnh Bình Thuận có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn:
  • Nước khoáng thiên niên bicarbonat: hơn 10 mỏ trữ lượng cao, chất lượng tốt (trong đó có cả mỏ nước khoáng nóng 700 độ C) có thể khai thác trên 300 triệu lít/năm. Trong đó, 2 mỏ đang được khai thác và kinh doanh đó là Vĩnh Hảo và Đa Kai.
  • Cát thủy tinh: 4 mỏ ở Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình và Hàm Tân với trữ lượng trên 500 triệu m³, chất lượng đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu, phù hợp để sản xuất thủy tinh cao cấp, kính xây dựng, gạch thủy tinh.
  • Đá granít: trữ lượng rất lớn, phân bố khắp nơi.
  • Sét bentonit: dùng trong công nghiệp hóa chất và khai thác dầu mỏ, trữ lượng khoảng 20 triệu tấn. Quặng Sa khoáng nặng để sản xuất titan, zircon, trữ lượng khoảng một triệu tấn. Tại Vĩnh Hảo có diện tích trên 1.000 ha, sản lượng 150.000 tấn/năm...
  • Zircon 4 triệu tấn dẫn đầu cả nước về trữ lượng này.
  • Dầu khí đang được xem là thế mạnh kinh tế mới của tỉnh Bình Thuận, với nhiều mỏ dầu có trữ lượng lớn đã được phát hiện cách đất liền 60 km; có 3 mỏ dầu Rạng Đông, Sư Tử Đen và Rubi đang khai thác. Hai mỏ: Sư Tử Trắng và Sư Tử Vàng chuẩn bị khai thác. Chính phủ và các bộ, ngành trung ương đang quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp dầu khí tại Bình Thuận để hình thành trung tâm dự trữ dầu mỏ nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và xuất khẩu.

Du lịch

Ngày 24 tháng 10 năm 1995, hàng vạn người bao gồm các nhà khoa học, khách du lịch trong nước và quốc tế đổ về núi Tà Dôn (huyện Hàm Thuận Bắc) và Mũi Né - Phan Thiết để chiêm ngưỡng và nghiên cứu hiện tượng nhật thực toàn phần cũng đồng thời nhận ra nơi này có nhiều cảnh quan kỳ thú và tiềm năng du lịch phong phú. Đây được coi là mốc thời gian mà Bình Thuận bắt đầu có tên trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Là một tỉnh ven biển, khí hậu quanh năm nắng ấm, nhiều bãi biển sạch đẹp, cảnh quan tự nhiên và thơ mộng, giao thông thuận lợi, Bình Thuận đang là một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam.
Bình Thuận đã đầu tư xây dựng các quần thể du lịch - nghỉ mát - thể thao - leo núi - du thuyền - câu cá - đánh gôn - nghỉ dưỡng - chữa bệnh tại khu vực phường Mũi Né (thành phố Phan Thiết), Hàm Tân, Tuy Phong phục vụ du khách. Hiện nay, thành phố Phan Thiết đang có hai sân golf 18 lỗ: NovotelSealinks mang tầm vóc quốc tế; các khách sạn lớn, nhiều khu resort cao cấp, hệ thống nhà nghỉ ven biển... sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu ăn nghỉ, vui chơi giải trí của du khách và các nhà đầu tư. Bình Thuận còn có nhiều di tích văn hóa - lịch sử, danh làm thắng cảnh hấp dẫn.

Danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử - văn hóa

Danh lam thắng cảnh

  • Lầu Ông Hoàng (Phan Thiết)
  • Đồi Dương -
  • Mũi Né (Phan Thiết)
  • Mũi Kê Gà (Hàm Thuận Nam)
  • Núi Tà Cú (Hàm Thuận Nam)
  • Bàu Trắng (Bắc Bình)
  • Chùa Cổ Thạch (Tuy Phong)
  • Chùa Linh Sơn Cổ Tự (Tuy Phong)
  • Hồ Hàm Thuận - Đa Mi (Hàm Thuận Bắc)
  • Hồ Sông Quao (Hàm Thuận Bắc)
  • Đồi Dương (Lagi)
  • Thác bảy tầng (Tánh Linh)
  • Núi Cao Cát (Phú Quý)
  • Hòn Tranh (Phú Quý)
  • Bãi Nhỏ (Phú Quý)
  • Vịnh Triều Dương (Phú Quý)

Di tích lịch sử - Văn hóa

  • Trường Dục Thanh (Phan Thiết)
  • Mộ cụ Nguyễn Thông (Phan Thiết)
  • Tháp Po Sah Inư (Phan Thiết)
  • Vạn Thủy Tú (Phan Thiết)
  • Đình làng Đức Nghĩa (Phan Thiết)
  • Hải đăng Kê Gà (Hàm Thuận Nam)
  • Dinh Thầy Thím (Hàm Tân)
  • Chùa Linh Quang (Phú Quý)
  • Vạn An Thạnh (Phú Quý)
  • Khu Du Lịch Dinh Thầy Thím (LaGi-Tân Hải)

Kết nghĩa

Hưởng ứng phong trào kết nghĩa Bắc - Nam, tỉnh Tuyên Quang kết nghĩa với tỉnh Bình Thuận[9][10]. Tại thành phố Phan Thiết có một con đường và một trường tiểu học mang tên "Tuyên Quang" và tại thị xã Tuyên Quang có một phường và một trường trung học cơ sở mang tên "Phan Thiết". Ờ

Những cái nhất



Lễ hội rước đèn Trung thu tại Phan Thiết
  • Tháp nước có kiến trúc đẹp (cao 32m, do Hoàng thân Lào Xuvanuvông thiết kế). (Phan Thiết)
  • có bộ xương cá voi dài nhất ĐÔNG NAM Á(22m) được trưng bày ở dinh Vạn Thủy Tú (Phan Thiết)
  • Ngọn hải đăng Kê Gà bằng đá cao nhất (cao 100 m). (Hàm Thuận Nam)
  • Tượng Phật trên núi Tà cú là tượng Phật nằm lớn và dài nhất (49 m). (Hàm Thuận Nam)
  • Bãi đá Cổ Thạch nhiều hình hài màu sắc nhất.
  • Bình Thuận còn là vùng trồng cây Thanh Long nhiều và ngon nhất, sò điệp nhiều và có giá trị nhất.
  • Bình Thuận là địa phương có nhiều cuộc thi, lễ hội dân gian độc đáo nhất như: đua thuyền trên sông Cà Ty (mồng 2 Tết hằng năm), lướt ván - đua thuyền bườm hàng năm (Mũi Né), chinh phục núi Tà Cú, chạy việt dã vượt đồi cát Mũi Né và lễ hội rước đèn Trung thu (Phan Thiết) có quy mô lớn nhất dành cho trẻ em được ghi vào sách Kỉ lục Guiness Việt Nam. Lễ hội Nghinh Ông(Quan Thánh Đế Quân : vào tháng 7 âm lịch vào năm chẳn ), Lễ hội cầu ngư, lễ hội Ka-tê (Phan Thiết).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét