Điều kiện tự nhiên (10/07/2012 02:30 PM) |
Tỉnh Nghệ An nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung Bộ, đất rộng, người đông.
Với diện tích 16.490,25 km2, lớn nhất cả nước; dân số hơn 2,9 triệu
người, đứng thứ tư cả nước; là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh; hội
tụ đầy đủ các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không,
đường biển, đường thuỷ nội địa; điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng
như một Việt Nam thu nhỏ... Nghệ An có nhiều tiềm năng và lợi thế để
thu hút đầu tư và ngày càng có nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước đến
tìm hiểu cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Nghệ An.
Bản đồ hành chính tỉnh Nghệ An
1. Vị trí địa lý kinh tế:
Nghệ An nằm
ở vĩ độ 180 33'
đến 200 01'
vĩ độ Bắc, kinh độ 1030 52'
đến 1050 48' kinh độ Đông, ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ. Nghệ
An là tỉnh nằm ở trung tâm vùng
Bắc Trung bộ, giáp tỉnh Thanh
Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ở phía Tây với 419 km đường biên giới trên bộ; bờ biển ở phía Đông dài 82 km. Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại
và mở rộng hợp tác quốc tế. Nghệ An nằm trên các tuyến
đường quốc lộ Bắc - Nam (tuyến quốc lộ 1A dài 91 km đi qua các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc,
Hưng Nguyên và thành phố Vinh, đường Hồ Chí Minh chạy song song với quốc lộ 1A
dài 132 km đi qua các huyện
Quỳnh Lưu, Nghĩa
Đàn, Tân Kỳ, Anh Sơn, Thanh
Chương và thị xã Thái Hoà, quốc lộ 15 ở phía Tây dài 149 km chạy xuyên
suốt tỉnh); các tuyến
quốc lộ chạy từ phía Đông lên phía Tây, nối với nước bạn Lào thông qua các
cửa khẩu (quốc lộ 7 dài 225 km, quốc lộ 46 dài 90 km, quốc lộ 48 dài trên 160 km). Tỉnh có tuyến đường
sắt Bắc - Nam dài 94 km chạy qua.
Nghệ An nằm trong hành lang kinh tế Đông - Tây nối liền My-an-ma - Thái Lan -
Lào - Việt Nam - Biển Đông theo
đường 7 đến cảng Cửa Lò. Nằm trên các tuyến du lịch
quốc gia và quốc tế (tuyến du lịch xuyên
Việt; tuyến du lịch Vinh - Cánh đồng Chum -
Luôngprabang - Viêng Chăn - Băng Cốc và ngược lại qua Quốc lộ 7 và đường
8).
Với vị trí như
vậy, Nghệ An đóng
vai trò quan
trọng trong giao
lưu kinh tế,
thương mại, du lịch,
vận chuyển hàng hoá với cả nước và các nước khác trong khu vực, nhất là
các nước Lào, Thái Lan và Trung Quốc,
là điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
2. Đất đai - Thổ nhưỡng:
2.1. Diện tích:
Nghệ An có diện tích tự nhiên là 16.490,25 km2. Hơn 80% diện tích là vùng đồi núi
nằm ở phía tây gồm 10 huyện,
và 1 thị xã; Phía đông là phần diện tích đồng bằng và duyên
hải ven biển gồm 7 huyện, 1 thị xã và thành phố Vinh. Phân chia theo nguồn gốc hình
thành thì có các nhóm đất như sau:
2.2. Thổ nhưỡng:
a -
Đất thuỷ thành: Phân bố tập trung chủ yếu ở các huyện
đồng bằng, ven biển,
bao gồm 5 nhóm đất: đất cát; đất phù sa, dốc tụ; đất mặn; đất phèn mặn; đất bạc màu và biến
đổi do trồng lúa.
Chiếm vị trí quan trọng
trong số này có 189.000
ha đất phù sa và nhóm đất cát, có ý nghĩa lớn đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Sau đây là đặc điểm của hai loại chính:
- Đất cát cũ ven biển: 21.428 ha (tập trung ở vùng ven biển), đất có thành phần cơ giới
thô, kết cấu rời rạc, dung tích hấp thụ thấp. Các chất dinh dưỡng như mùn, đạm, lân
đều nghèo, kali
tổng số cao,
nhưng kali dễ tiêu nghèo,
thích hợp và đã được
đưa vào trồng các loại cây như: rau, lạc, đỗ, dâu tằm, ... .
- Đất phù
sa thích hợp
với canh tác
cây lúa nước
và màu: Bao
gồm đất phù
sa được bồi hàng năm, đất phù sa không được bồi, đất phù sa lầy úng, đất phù sa cũ có sản phẩm
Feralit. Nhóm này có diện tích khoảng 163.202 ha, trong đó đất phù sa không được bồi hàng
năm chiếm khoảng
60%. Đất thường
bị chia cắt mạnh, nghiêng
dốc và lồi lõm, quá trình
rửa trôi diễn ra liên tục cả bề mặt và chiều
sâu. Loại đất này tập trung chủ yếu
ở vùng đồng bằng, phần lớn được dùng để trồng lúa nước (khoảng
74.000 ha). Các dải
đất, bãi bồi ven sông và đất phù sa cũ có địa hình cao hơn thường trồng
ngô và cây công nghiệp ngắn ngày khác.
- Ngoài hai loại đất chính trên còn có đất cồn cát ven biển và đất bạc màu, tuy nhiên, diện tích nhỏ và có nhiều hạn chế trong
sản xuất nông nghiệp.
b - Đất địa thành:
Loại đất này tập trung chủ yếu ở vùng núi (74,4%) và bao gồm các
nhóm đất sau:
*) Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến
thạch sét (Fs)
Tổng diện tích 433.357
ha, phân bố trên một phạm vi rộng lớn ở hầu khắp và tập
trung nhiều ở các
huyện Tương Dương,
Con Cuông, Tân
Kỳ, Anh Sơn, Thanh Chương, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp.
Đất đỏ vàng trên phiến sét có ở hầu hết tất cả các loại địa hình nhưng tập trung ở vùng
núi thấp, độ dốc lớn,
tầng đất khá
dày. Đây là loại
đất đồi núi
khá tốt, đặc
biệt là về
lý tính (giữ nước và giữ màu tốt), phù hợp để phát triển
các loại cây công nghiệp
và cây ăn quả. Thời gian qua loại đất này đã được đưa vào sử dụng để trồng các loại cây như: chè,
cam, chanh, dứa, hồ tiêu,... Diện tích loại đất này còn nhiều và tập trung thành
vùng lớn, nhất là ở các huyện
Anh Sơn, Thanh Chương, Nghĩa
Đàn, Tân Kỳ, Quỳnh
Lưu. Đây là một thế mạnh của Nghệ An so với nhiều địa phương khác ở miền Bắc để phát
triển các loại cây công nghiệp và cây ăn quả.
*) Đất vàng nhạt phát triển trên sa thạch
và cuội kết (Fq)
Tổng diện tích 315.055 ha, phân bố rải rác theo dải hẹp xen giữa các dải đất phiến
thạch kéo dài theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam của tỉnh qua nhiều
huyện miền núi và
trung du như Thanh Chương,
Anh Sơn, Tân Kỳ, Tương Dương, Kỳ Sơn.... Do thành
phần cơ giới tương đối nhẹ hơn so với đất phiến thạch sét nên đất vàng nhạt trên sa thạch
thường bị xói mòn mạnh,
tầng đất tương
đối mỏng và nhiều nơi trơ sỏi đá. Chỉ có
một số nơi địa hình đồi núi cao, thảm thực vật che phủ khá mới có độ dày tầng đất từ 50-
70 cm. Đất vàng nhạt trên sa thạch thường
nghèo dinh dưỡng,
khả năng giữ nước và kết
dính kém, thành phần keo sét thấp,
khả năng giữ màu, đến nay hầu như không
sử dụng vào sản
xuất nông nghiệp.
ở vùng cao
có khả năng
trồng một số cây công
nghiệp nhưng phải có chế độ bảo vệ nguồn nước và chống
xói mòn tốt mới duy trì được hiệu quả sử
dụng đất.
*) Đất vàng đỏ phát triển trên các đá axít (Fa)
Tổng diện tích khoảng 217.101 ha, phân bố rải rác ở các huyện Anh Sơn, Con
Cuông, Tương Dương, Quỳ Châu...
Phần lớn đất vàng đỏ trên đá axít có thành phần cơ
giới nhẹ, nghèo dinh dưỡng,
bị xói mòn
rửa trôi mạnh,
độ chua lớn
(PHKCL< 4), dùng
để trồng rừng.
*) Đất đỏ nâu trên đá vôi (Fv)
Tổng diện tích khoảng
34.064 ha, phân bố rải rác ở các huyện:
Tân Kỳ, Nam Đàn,
Quỳ Hợp... Đất đỏ nâu trên đá vôi ở các vùng địa hình thấp thường có tầng dày hơn; ở
vùng núi cao đất đá vôi bị phong hoá và rửa trôi mạnh nên tầng đất mỏng hơn.
Tuy nhiên, phần lớn đất đá vôi có độ dày tầng đất khá thường trên 50 cm, độ phì ở đất đá vôi khá.
Đất đỏ nâu trên đá vôi thích
hợp cho việc trồng nhiều
loại cây lâu năm như: cam,
chè, cà phê, cao su...
và có tầng đất dày, độ dốc thoải
và độ phì khá. Tuy nhiên,
diện tích đất đá vôi này không lớn mà phân bố manh mún, có thể kết hợp với những đất khác để tạo
nên những vùng cây trồng
có hiệu quả kinh tế cao.
*) Đất nâu đỏ trên bazan (Fk)
Tổng diện tích khoảng 14.711 ha, phân bố chủ yếu ở vùng kinh tế Phủ Quỳ. Đây
là loại đất tốt, thoát nước tốt nhưng giữ nước kém, có tầng dày trên 1 m, địa hình khá
bằng phẳng, ít dốc (độ dốc nhỏ hơn 10o), rất thích hợp với cây công nghiêp dài ngày. Hầu hết loại đất này đã được sử dụng vào sản xuất, chủ yếu là trồng cao su, cà phê,
cam,... và cho hiệu quả kinh tế cao.
*) Đất Feralit
đỏ vàng trên núi, đất mùn trên núi cao
Loại đất này chiếm gần 20% diện tích thổ nhưỡng. Tuy có độ phì
cao song khả năng phát triển sản xuất nông nghiệp bị hạn chế do tập trung chủ yếu trên núi cao, địa
hình dốc và bị chia cắt mạnh,
thích hợp cho sản xuất lâm nghiệp.
|
Thứ Tư, 13 tháng 3, 2013
quạt công nghiệp bán ở tại nghệ an , mua quat cong nghiep nghe an báo giá rẻ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét